Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, các bài tập thuộc dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình; Kể về một buổi thi đấu thể thao, . nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) một cách chi tiết, rõ ràng, đủ nội dung về chủ đề đó.
Dạng bài kể hay nói, viết về một chủ đề là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Chúng tôi tiến hành dạy theo trình tự như sau:
- Giới thiệu bài.
- Hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập.
+ Tổ chức cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một hoc sinh kể trước và giáo viên nhận xét.
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm), đại diện một số nhóm nói trước lớp.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong sách giáo khoa.
ông nỡ nhìn” - Trang 61, Tiếng Việt 3, tập 1. Nội dung truyện: “Trên một chuyến xe buýt đông người, có anh thanh niên đang ngồi cứ lấy hai tay ôm mặt. Một bà cụ ngồi bên thấy thế bèn hỏi: - Cháu nhức đầu à? Có cần dầu xoa không? Anh thanh niên nói nhỏ: - Không ạ. Cháu không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.” Với bài nghe - kể này, chúng tôi tiến hành như sau: - Treo tranh vẽ minh họa câu chuyện lên bảng, yêu cầu học sinh quan sát. Chia nhóm 4 và tổ chức cho học sinh làm phiếu học tập. - Gọi đại diện các nhóm nêu một số ý và ghi lên bảng. - Kể chuyện 2 lần cho học sinh nghe, yêu cầu học sinh đối chiếu giữa nội dung truyện với dự đoán để điều chỉnh phần b của bài tập (nếu cần). Phiếu học tập của học sinh sau khi đã hoàn thiện như sau: Câu hỏi gợi ý a. Thử đoán nội dung b. Điều chỉnh nội dung khi nghe kể Câu chuyện có mấy nhân vật? Truyện có hai nhân vật Truyện có hai nhân vật Họ đang làm gì? Họ kể chuyện cho nhau nghe Anh thanh niên đang ngồi trên xe buýt nhìn thấy cụ già và phụ nữ phải đứng nên anh ấy cứ lấy tay ôm mặt. Bà cụ ngồi cạnh thấy vậy liền hỏi chuyện. Bà cụ đã làm gì? Anh thanh niên đó trả lời bà cụ ra sao? Bà cụ khuyên anh đó ngồi ngoan. Bà cụ hỏi anh thanh niên có bị đau đầu và cần xoa dầu hay không. Anh thanh niên trả lời bà cụ một cách hồn nhiên: Cháu không nỡ nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng. Kết quả câu chuyện như thế nào? Bà cụ bực tức. Anh thanh niên nhận ra việc làm của mình chưa đúng, cảm thấy xấu hổ với mọi người xung quanh. - Tổ chức cho học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện: + Câu chuyện giúp em học được bài học gì cho bản thân mình? - Kể lại chuyện theo nhóm, nhận xét, đánh giá, khen ngợi học sinh. b. Cách 2: - Kể chuyện lần 1, hướng dẫn học sinh tìm hiểu câu chuyện có những nhân vật nào. - Kể chuyện lần 2, học sinh lắng nghe, thảo luận nhóm và hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập. Sơ đồ trình tự câu chuyện như sau: 1 2 3 5 4 - Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể truyện theo nhóm. - Trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. Ví dụ: Bài “Nghe - kể lại chuyện: Tôi có đọc đâu” - Tiếng Việt 3, tập 1. Nội dung truyện: “Một người ngồi viết thư cho bạn ngay trong bưu điện. Bỗng anh ta thấy người ngồi cạnh ghé mắt đọc trộm thư của mình. Bực mình, anh ta bèn viết thêm vào thư: Xin lỗi. Mình không viết tiếp được nữa, vì hiện có người đang đọc trộm thư. Người ngồi cạnh liền kêu lên: - Không đúng! Tôi có đọc trộm thư của anh đâu!” Với bài nghe - kể này, chúng tôi tiến hành như sau: - Kể chuyện lần 1 và hỏi học sinh: + Câu chuyện có mấy nhân vật? + Chuyện xảy ra ở đâu? - Kể chuyện lần 2, học sinh lắng nghe, thảo luận nhóm 4 và hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập. Viết thư cho bạn Phiếu học tập của học sinh khi hoàn thành như sau: Anh thanh niên Trong bưu điện Người ngồi cạnh Tôi có đọc đâu - Học sinh kể lại truyện trong nhóm dựa vào trình tự câu chuyện, lớp theo dõi, nhận xét, bổ sung. - Tổ chức cho học sinh trao đổi về tính khôi hài của truyện. - Liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người ngồi cạnh đọc trộm thư của mình như thế thì em sẽ làm gì? * Ngoài hai cách chúng tôi đưa ra, còn rất nhiều cách khác để tiến hành dạy dạng bài “Nghe - kể lại truyện”. Muốn giờ học đạt hiệu quả thì: + Tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh trong lớp để giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp nhất. + Giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến nội dung truyện hoặc xây dựng mạng câu chuyện, phiếu bài tập, để tạo hứng thú học tập trong học sinh. + Giáo viên cần giao việc cho học sinh rõ ràng, kèm cặp, hướng dẫn học sinh hoạt động nhằm tạo cho các em niềm tin và mạnh dạn hơn trong học tập. 7.1.5. Biện pháp 5: Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, các bài tập thuộc dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình; Kể về một buổi thi đấu thể thao, ... nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) một cách chi tiết, rõ ràng, đủ nội dung về chủ đề đó. Dạng bài kể hay nói, viết về một chủ đề là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Chúng tôi tiến hành dạy theo trình tự như sau: - Giới thiệu bài. - Hướng dẫn học sinh làm bài: + Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập. + Tổ chức cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài. + Một hoc sinh kể trước và giáo viên nhận xét. - Học sinh tập nói theo tổ (nhóm), đại diện một số nhóm nói trước lớp. - Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong sách giáo khoa. * Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa: a. Tìm hiểu đề: - Học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? Là gì? Ở đâu? Lúc nào?... vào khung chủ đề. Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng - Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng các bước sau: + Giáo viên trò chuyện, đồng thời khơi gợi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng. + Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài. + Kể một mẩu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài. + Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh tự sưu tầm. + Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung cấp) liên quan đến đề tài. + Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào. + Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của học sinh. b. Tìm ý: - Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. - Khi tiến hành hoạt động này, giáo viên cần sử dụng các bước sau: + Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh nghiệm riêng của các em. Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em nhìn thấy gì? Em nghe được gì? Em có suy nghĩ gì? Em cảm thấy như thế nào?... + Đưa ra một khung mạng cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh suy nghĩ và thêm ý vào để hoàn thành mạng (bông hoa, chùm bóng, cây có nhiều cành,...) + Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. c. Lập dàn ý: Sắp xếp ý đã có trong mạng. - Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tích chất mở. - Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự. - Gọi học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả lớp theo dõi việc làm mẫu của một số học sinh. d. Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài nói hoặc viết: - Bài tập nói: Giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi. - Bài tập viết: Giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay quanh mạng ít nhất một câu. - Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài: + Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước. + Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày. + Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu nhập danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa. + Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu. e. Trao đổi, sửa chữa và nhận xét: - Bài nói: Tổ chức cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp. Sau đó trao đổi, nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và thể loại của đề bài. - Bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo hình thức nhóm/ cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). g. Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn chỉnh. Ví dụ : Nói về quê hương em (Bài tập 2-Tiếng Việt 3 -Tập 1- Trang 92) - Treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b; cho các nhóm tự nêu kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, giáo viên bổ sung hoàn thành bài tập. - Treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích thích học sinh hồi tưởng rõ nét về quê hương của mình. - Học sinh làm vào giấy nháp; hai em làm vào bảng phụ ghi vào khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưu ý học sinh chỉ ghi từ hoặc cụm từ). - Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3. - Học sinh nhìn mạng của mình và nói trước lớp. + Em sinh ra và lớn lên ở vùng quê nông thôn tươi đẹp. Nơi đây có những con đường làng quanh co trải dài tít tắp. Hai bên đường là những lũy tre xanh rì rào trong gió. Đầu làng, cây đa cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Ngay trước ngôi nhà em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình! + Em được sinh ra và lớn lên giữa lòng thủ đô Hà Nội – một thành phố tuyệt đẹp. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà cao tầng, những trung tâm thương mại. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi l
Tài liệu đính kèm: