Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài giảng.
Tổ chuyên môn được giao nhiệm vụ nghiên cứu, lên kế hoạch thống nhất cách xác định mục tiêu cho các môn học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh và đảm bảo sát với yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Trước hết các tổ chuyên môn sinh hoạt 1 lần/tuần, ở đó tài liệu yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng của các môn học được triển khai đến từng thành viên, các cuộc họp tổ có đại diện ban giám hiệu dự để có ý kiến chỉ đạo cụ thể và kịp thời. Từ đó giúp giáo viên chỉnh lại mục tiêu trong sách giáo viên để phù hợp với tình hình học sinh trong lớp mình và đảm bảo yêu cầu cơ bản tối thiểu so với mặt bằng chung. Ví dụ: Một số bài chính tả so sánh phân biệt các phụ âm v/d ở địa phương học sinh thường không mắc lỗi thì đồng thời chỉnh cả nội dung và mục tiêu để dạy cho học sinh những cặp phụ âm hay mắc lỗi hơn như tr/ ch, s/ x. (hay gặp ở lớp 4,5).
Để thực hiện tốt bài giảng, GV cần xác định đúng mục đích và yêu cầu bài giảng. Có như vậy khi chuẩn bị giáo án mới thấy cần tập trung thời gian, phương pháp nào là hợp lý với nội dung nào. Mục đích là cái cuối cùng phải đạt được, là nhiệm vụ của GV khi lên lớp, là cái mà học sinh cần đạt được sau mỗi bài giảng. Mục đích mang tính khái quát, khó định lượng, đánh giá ngay được nhưng lại là cái hướng cho học sinh phải đạt tới. Mục đích trong các bài giảng bao gồm các tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp mà học sinh cần phải có. Đối với bài giảng lý thuyết, mục đích chính là trang bị kiến thức. Đối với bài giảng thực hành, mục đích chính là rèn luyện kỹ năng
Chuẩn bị đồ dùng dạy học
Để chất lượng bài giảng tốt ngoài những nội dung trên, giáo viên còn phải chuẩn bị các phương tiện - thiết bị dạy học. Đây là khâu chuẩn bị cần thiết trong khi tiến hành giảng dạy để minh họa chính xác cho nội dung bài giảng làm cho học sinh dễ khắc sâu kiến thức hơn. Giáo viên cần xác định nguồn tư liệu thông tin phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Các thông tin thu thập cần phải sàng lọc, cấu trúc lại cho người học sử dụng thuận tiện, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng.
công thức, bài dạy bài tập, ôn tập chương, ôn tập cuối học kỳ. - Nếu bài dạy khái niệm mở đầu thì giáo viên cần tìm hiểu khái niệm này xuất hiện do đâu, hoàn cảnh nào, tác giả là ai, hướng khái niệm đó giải quyết những vấn đề gì... có như vậy giáo viên tạo được phương hướng học của học sinh về khái niệm đó. - Nếu bài dạy bài tập, giáo viên cần nắm chắc các dạng toán của phần kiến thức đó từ đó chế biến, tổng hợp lại tạo ra các bài toán mới có tính bao quát, hệ thống, dễ nhớ và vận dụng. Giáo viên cần phân biệt chữa bài tập cho học sinh với dạy học sinh làm bài tập. Nếu là bài tập tiết 1 thì cần ôn lại kiến thức đã học như thế nào, chọn những nội dung bài tập nào trong sách giáo khoa, sách bài tập để chữa cho học sinh. Sau mỗi loại bài tập đã giải quyết cần rút ra được điều gì, căn cứ vào đặc điểm nào để đề ra đường lối giải của loại bài toán đó. Giải xong bài toán nên hướng dẫn học sinh cách đặc biệt hóa, khái quát hóa để được các bài toán mới, xếp nhóm các bài toán lại với nhau tạo ra công cụ tư duy toán về sau. Đối với học sinh chưa hoàn thành môn học, giáo viên cần phải nêu rõ từng bước giải bài toán. Nếu là bài dạy hỗn hợp giữa lý thuyết và bài tập thì phải chú ý bài tập làm rõ lý thuyết và lý thuyết tạo nên cách giải bài tập, do đó bài tập phải đan xen trong khi dạy lý thuyết. Nếu là dạng bài luyện tập chung thì giáo viên hướng dẫn học sinh cách tổng kết lý thuyết ở nhà, tổng hợp các dạng toán đã học. Khi dạy giáo viên cần tích hợp lại bằng bài toán có tính chất tổng hợp cho học sinh để ôn tập. Chú ý giáo viên cần đưa ra được các tình huống học sinh hay hiểu nhầm, hiểu sai khi giải bài để các em rút kinh nghiệm. Giáo viên phải biết tạo ra các phản ví dụ cho học sinh nhận biết bài học sâu sắc hơn, nhất là các bài về khái niệm mới. Giáo viên nên thay đổi hoặc bổ sung, thêm bớt nội dung bài dạy cho phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Phải hiểu rõ kiến thức dạy thì giáo viên sẽ biết dạy cái gì và dạy như thế nào. Giáo viên cần hỏi học sinh câu nào, hỏi như thế nào để làm nổi bất kiến thức cần dạy. Kiến thức nào cần thuyết trình, kiến thức nào cần phát vấn, kiến thức nào để học sinh tranh luận có hiệu quả hơn. Giáo viên cần chỉ ra kiến thức khi học sinh vận dụng hay gặp sai sót, nhầm lẫn để các em biết phòng tránh. Để nâng cao nhận thức cho học sinh, giáo viên cần điều chỉnh dung lượng kiến thức cho phù hợp, quá trình nhận thức của học sinh phải đảm bảo từ trực quan đến trừu tượng, từ cụ thể đến khái quát và từ khái quát về cụ thể. Để có bài giảng tốt, giáo viên cần trao đổi thường xuyên với đồng nghiệp, tăng cường nghiên cứu sách báo, các phương tiện thông tin khác; GV cần ghi chép lại cẩn thận những phát hiện hay, bài giảng tốt trong giáo án để lần sau giảng tốt hơn và chia sẻ được với đồng nghiệp. Giáo viên cần phải cập nhật thông tin về giảng dạy, kiến thức nâng cao và thay đổi ở trong nước cũng như trên thế giới. Phải đặt giáo viên vào hoàn cảnh của học sinh thì mới có thể xem xét về mức độ nhận biết, tiếp thu bài có được không nếu cần ta thay đổi cách tiếp cận khác cho tốt hơn. Giáo viên cần lắng nghe ý kiến phản hồi lại từ phía học sinh để điều chỉnh cách soạn và giảng dạy cho phù hợp hơn cho học sinh. Tăng cường dự giờ thăm lớp, bồi dưỡng giúp đỡ giáo viên. Để nâng cao chất lượng giờ dạy một công việc quan trọng của nhà trường là tăng cường công tác thanh kiểm tra chuyên môn. Trong đó dự giờ thường xuyên các đối tượng giáo viên đặc biệt là những giáo viên yếu tay nghề là công việc có ý nghĩa quyết định. Việc dự giờ được tiến hành theo kế hoạch hằng tháng, hằng tuần một cách thường xuyên sẽ giúp giáo viên đứng lớp trước hết có tâm thế vững vàng, bởi không ít giáo viên khi có người dự thì dễ bị lúng túng, quan trọng hơn là giúp giáo viên có ý thức chuẩn bị bài tốt, tự tin và có cố gắng trong việc áp dụng các phương pháp mới phát huy tính tích cực của học sinh, sau dự giờ đều có rút kinh nghiệm để chỉ rõ nhược điểm để khắc phục sửa chữa. Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và trang thiết bị dạy học trong giờ lên lớp. Việc đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện ghế ngồi, ánh sáng... cho học sinh góp phần quan trọng không nhỏ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và từng bài học nói riêng. Từ năm học 2010- 2011, nhà trường đã có đủ số phòng học đạt quy cách về diện tích, ánh sáng. Nhờ đó việc triển khai học nhóm, học cá nhân trong các giờ dạy rất thuận lợi góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy đặc biệt việc mua sắm thêm thiết bị đồ dùng dạy học và sử dụng đồ dùng trực quan trong từng tiết học được chỉ đạo sát sao. Ngoài đồ dùng được cấp phát nhà trường vận động giáo viên tham gia cuộc thi đồ dùng tự làm để dùng chung. Nhà trường định kỳ và đột xuất kiểm tra việc sử dụng đồ dùng trên lớp. Các lớp học được trang bị đầy đủ mỗi lớp một tủ thiết bị để giáo viên để đồ dùng dạy học. Tổ chức các phong trào thi đua, phát huy vai trò của các đoàn thể trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Công đoàn và Đoàn thanh niên có vai trò rất lớn trong việc động viên các đoàn viên của mình tham gia xây dựng tập thể và nâng cao chất lượng chuyên môn. Thông qua các đợt thi đua, nhà trường phối hợp với Công đoàn – Chi đoàn tạo ra những đợt thi đua sôi nổi, tạo không khí phấn khởi hào hứng trong cán bộ giáo viên, qua đó ý thức chuẩn bị bài dạy, ý thức trách nhiệm trong giờ dạy được nâng lên rõ rệt đã có tác động to lớn đến chất lượng chuyên môn nói chung và chất lượng từng giờ dạy nói riêng. Tiếng nói chung của tập thể bao giờ cũng lôi cuốn được mọi người tham gia khi đó trở thành phong trào tốt thì hiệu quả cao. 8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài giảng. Tổ chuyên môn được giao nhiệm vụ nghiên cứu, lên kế hoạch thống nhất cách xác định mục tiêu cho các môn học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh và đảm bảo sát với yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Trước hết các tổ chuyên môn sinh hoạt 1 lần/tuần, ở đó tài liệu yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng của các môn học được triển khai đến từng thành viên, các cuộc họp tổ có đại diện ban giám hiệu dự để có ý kiến chỉ đạo cụ thể và kịp thời. Từ đó giúp giáo viên chỉnh lại mục tiêu trong sách giáo viên để phù hợp với tình hình học sinh trong lớp mình và đảm bảo yêu cầu cơ bản tối thiểu so với mặt bằng chung. Ví dụ: Một số bài chính tả so sánh phân biệt các phụ âm v/d ở địa phương học sinh thường không mắc lỗi thì đồng thời chỉnh cả nội dung và mục tiêu để dạy cho học sinh những cặp phụ âm hay mắc lỗi hơn như tr/ ch, s/ x... (hay gặp ở lớp 4,5). Để thực hiện tốt bài giảng, GV cần xác định đúng mục đích và yêu cầu bài giảng. Có như vậy khi chuẩn bị giáo án mới thấy cần tập trung thời gian, phương pháp nào là hợp lý với nội dung nào. Mục đích là cái cuối cùng phải đạt được, là nhiệm vụ của GV khi lên lớp, là cái mà học sinh cần đạt được sau mỗi bài giảng. Mục đích mang tính khái quát, khó định lượng, đánh giá ngay được nhưng lại là cái hướng cho học sinh phải đạt tới. Mục đích trong các bài giảng bao gồm các tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp mà học sinh cần phải có. Đối với bài giảng lý thuyết, mục đích chính là trang bị kiến thức. Đối với bài giảng thực hành, mục đích chính là rèn luyện kỹ năng Chuẩn bị đồ dùng dạy học Để chất lượng bài giảng tốt ngoài những nội dung trên, giáo viên còn phải chuẩn bị các phương tiện - thiết bị dạy học. Đây là khâu chuẩn bị cần thiết trong khi tiến hành giảng dạy để minh họa chính xác cho nội dung bài giảng làm cho học sinh dễ khắc sâu kiến thức hơn. Giáo viên cần xác định nguồn tư liệu thông tin phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Các thông tin thu thập cần phải sàng lọc, cấu trúc lại cho người học sử dụng thuận tiện, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng. Thống nhất cách trình bày bài soạn. Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Với những giáo viên khá giỏi, dạy lâu năm thì yêu cầu bài soạn khác với những giáo viên mới ra trường. Hình thức trình bày bài soạn phải phù hợp với nội dung bài dạy. Từ đầu năm học nhà trường chỉ đạo tổ chuyên môn thống nhất xây dựng cấu trúc bài soạn cho từng môn học. Nhờ đó mọi bài soạn của giáo viên trong trường đều theo một cấu trúc thống nhất, chất lượng bài soạn được nâng lên một bước góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học. Bài soạn được thống nhất theo các bước sau: Bước 1: Ổn định lớp (1 đến 2 phút tính cho một tiết giảng). Bước này thực hiện 2 nội dung: - Kiểm tra số lượng học sinh ở tiết dạy - Nhắc nhở những điều cần thiết. Việc kiểm tra số lượng là một nội dung quản lý số lượng học sinh có đi học chuyên cần không? Vì vậy, bước này giáo viên làm thường xuyên và nghiêm túc, vì nó ảnh hưởng đến nề nếp học tập của học sinh, giúp cho GVCN biết được tình hình học tập của lớp. (Tuy nhiên việc kiểm tra đầu giờ nên tránh những biểu hiện quá nguyên tắc, khô khan làm ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa thầy và trò làm cho quá trình tiếp thu bài của học sinh không thoả mái). Bước 2: Kiểm tra bài cũ (Thời gian 5 dến 7 phút tính cho một tiết học). Nội dung kiểm tra là những kiến thức của bài trước, tốt nhất là phần trọng tâm. Nhờ kiểm tra bài cũ giúp cho học sinh củng cố và nắm chắc phần cốt lõi để tiếp thu bài sau. Kiểm tra bài cũ có những tác dụng to lớn sau đây: - Quản lý chất lượng và ý thức tự học của học sinh - Rèn ngôn ngữ cho học sinh - Giúp học sinh chuyển nhanh trạng thái chú ý sang bài mới. Tóm lại, bước kiểm tra bài cũ tuy thời gian rất ít nhưng mang lại nhiều lợi ích to lớn, vì vậy giáo viên phải nắm được ý nghĩa đó để thực hiện bước có chất lượng. Bước 3: Giảng bài mới (từ 3/4 đến 4/5 thời gian lên lớp) Đây là bước quan trọng nhất phản ánh trực tiếp kết quả giảng dạy của mỗi giáo viên. Sự thành công trong một bài giảng của mỗi giáo viên đều được thể hiện ở bước này. Vì vậy, khi biên soạn giáo án giáo viên phải tập trung trí tuệ và thời gian. Khi soạn giáo án ở bước này giáo viên tập trung vào các nội dung: 1. Nội dung bài giảng Nội dung bài giảng trong giáo án chỉ là những nội du
Tài liệu đính kèm: