Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ kể chuyện

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ kể chuyện

 Đây là phương pháp đàm thoại giữa cô và trẻ trong đó cô giữ vai trò chủ động. Để đặt ra những câu hỏi cho trẻ trả lời và ngược lại cô gợi ý trẻ đặt câu hỏi, đồng thời cô gợi ý nếu trẻ gặp khó khăn hoặc để trẻ trả lời được những câu hỏi cao hơn so với trình độ của trẻ nhằm phát huy tính tích cực của trẻ. Câu hỏi của cô đặt phải ngắn gọn, rõ ràng, rõ ý. Cô đặt câu hỏi chung cho cả lớp yêu cầu trẻ suy nghĩ và trả lời cho đúng. Sau đó yêu cầu trẻ giơ tay, gọi một trẻ trong số các trẻ giơ tay trả lời nhắc cả lớp nghe câu trả lời của bạn và kiểm tra lại ý kiến của mình. Có thể gọi thêm một vài trẻ khác trả lời hoặc nhận xét câu trả lời của bạn nhằm khuyến khích sự mạnh dạn tự tin ở trẻ. Sửa những câu trả lời không đúng, thiếu chính xác bằng các câu nói nhẹ nhàng (Bạn

doc 18 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 3151Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ kể chuyện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại những hiểu biết về cuộc sống xung quanh qua những câu chuyện thần thoại, chuyện cổ tíchĐặc biệt hấp dẫn trẻ, nhằm nuôi dương tâm hồn trẻ như: tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống thiên nhiên, cảm nhận được cái thiện, cái ác, cái hay, cái đẹp. Giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng, sáng tạo là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, diễn đạt lưu loát, biết sử dụng từ đúng lúc đúng chỗ.
 Văn học là một trong những phương tiện giáo dục hiệu quả nhất, để tạo cơ sở hình thành nhân cách con người mới. Chính vì vậy việc đưa văn học vào chương trình giáo dục mầm non là rất cần thiết giúp trẻ phát triển hoàn thiện về mọi mặt.
Trẻ thích tự mình kể lại các câu chuyện mà trẻ được nghe cô giáo kể. Đặc biệt trẻ thích thể hiện mình thông qua trò chơi đóng kịch cùng cô và các bạn.
Thông qua nội dung giáo dục của một số câu chuyện trẻ biết sống hướng thiện giàu lòng vị tha, yêu quý và kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị và quan tâm đến những người xung quanh. 
Từ những vấn đề trên, tôi không khỏi băn khoăn và tự hỏi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng giờ kể chuyện cho trẻ, để trẻ thật sự hứng thú vào giờ kể chuyện. Sau bao nhiêu suy nghĩ, ấp ủ, tôi đã tìm đủ mọi hình thức và phương pháp, biện pháp để nâng cao chất lượng giờ kể chuyện. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 
Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc.
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non chưa biết cầm sách và tự đọc chuyện. Để cảm nhận được câu chuyện trẻ phải nhờ vào người lớn. Vì vậy cô giáo là người trung gian là chiếc cầu nối để giúp trẻ. Do đó lời đọc, kể câu chuyện là phương pháp quan trọng nhất khi cho trẻ nghe câu chuyện. Lời kể càng hay càng hấp dẫn bao nhiêu thì giúp trẻ cảm thụ được nội dung câu chuyện bấy nhiêu, là tiền đề cho trẻ bắt chước ngữ điệu, giọng điệu và lột tả được tính cách của nhân vật. Đó là thước đo để đánh giá chất lượng giờ kể chuyện. 
Trong chương trình giáo dục mầm non đã có nội dung “Dạy trẻ mẫu giáo làm quen với văn học”. Bản thân tôi đã ý thức được việc dạy trẻ làm quen với văn học và đã có những phương pháp, biện pháp dạy ... Tuy nhiên các phương pháp, biện pháp dạy trẻ còn đơn điệu, việc tiếp thu của trẻ còn hạn chế hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy tôi chọn và nghiên cứu đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ kể chuyện". 
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp chồi 3 – Trường mầm non Krông Ana
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Trường mầm non Kông Ana – Huyện Krông Ana – Đăk Lăk
I.5. Phương pháp nghiên cứu 
- Nghiên cứu cơ sở lí luận: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ kể chuyện”
- Phương pháp đọc sách, phân tích, thu thập những tài liệu có liên quan đến việc dạy trẻ kể chuyện để xây dựng kinh nghiệm cho đề tài.
- Phương pháp thực nghiệm; áp dụng một số biện pháp dạy trẻ kể lại chuyện.
- Phương pháp dùng tình cảm động viên, khích lệ.
II. Phần nội dung
II. 1. Cơ sở lý luận 
 Văn học là một loại hình nghệ thuật đến với trẻ rất sớm và cũng được trẻ yêu thích. Nó không chỉ giúp trẻ cảm nhận được nghệ thuật mà qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, nhận thức, năng lực cảm xúc, tưởng tượng, tính sáng tạo, sự tập trung chú ý, khả năng diễn tả hứng thú của trẻ. Khác với các môn học khác văn học hoàn toàn xác định rõ những hình ảnh và ngôn ngữ cụ thể, cùng với thời gian đã thu hút, làm thỏa mãn nhu cầu, mong muốn, tình cảm của trẻ .
Văn học là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, phát triển lời nói, quan hệ giao tiếp, trao đổi tình cảm ....đối với trẻ. Văn học là một thế giới kỳ diệu đầy màu sắc, đầy cảm xúc. Trẻ mầm non dễ xúc cảm, vốn ngây thơ, trong sáng nên tiếp xúc với văn học là một nhu cầu không thể thiếu đối với trẻ.
Mục tiêu của công tác chăm sóc giáo dục mầm non phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ, việc dạy trẻ tiếp cận với tác phẩm văn học cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác như: môn làm quen toán, môn hoạt động tạo hình, làm quen chữ cái , môn âm nhạc ...đặc biệt cho trẻ làm quen với văn học là cho trẻ cơ hội được thể hiện mình, tự tin, mạnh dạn và trẻ phát triển vốn từ, trẻ nói đúng ngữ pháp.
	 II. 2. Thực trạng
 a. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi 
 - Bản thân là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ; có khả năng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn; hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. 
- Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu, nhà trường đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng, đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm.
- Lớp có tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các môn học.
- Được sự tín nhiệm, tin tưởng của phụ huynh học sinh.
* Khó khăn
- Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa rõ tiếng. Khả năng chú ý của trẻ còn hạn chế, không đồng đều;
- Một số trẻ chưa mạnh dạn còn nhút nhát trong khi kể chuyện;
- 100% trẻ của lớp chồi 3 lần đầu tiên đi học chưa có nề nếp học tập cũng như kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động kể chuyện sáng tạo.
- Khi tổ chức hoạt động nhiều lúc cô chưa phát huy hết tính sáng tạo của trẻ. 
- Phòng học còn chật chội, chưa đúng quy cách 
- Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên còn lúng túng khi sử dụng đồ dùng, chưa biết vận dụng tích hợp các môn học khác và khả năng thể hiện diễn cảm còn hạn chế.
b.Thành công - hạn chế
* Thành công
- Trong quá trình áp dụng đề tài này tôi thấy trẻ yêu thích môn văn học đặc biệt là loại tiết kể chuyện, trẻ hứng thú, tự tin, mạnh dạn trước đám đông và hăng say kể chuyện, biết thế hiện diễn cảm và kể chuyện sáng tạo 
 - Giáo viên nắm chắc phương pháp của môn kể chuyện, hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. 
* Hạn chế
- Tuy nhiên bên cạnh những thành công vẫn còn có những hạn chế nhất định như; một số trẻ còn gượng gạo chưa thật sự mạnh dạn, trong quá trình kể chuyện thế hiện diễn cảm và ngũ điệu giọng chưa phù hợp. 
 - Một số trẻ chưa mạnh dạn còn nhút nhát, thiếu tự tin, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ tiếp thu văn học chưa cao.
- Giáo vên đôi lúc chưa thật sự linh hoạt, chất giọng kể còn hạn chế.
 c. Mặt mạnh, mặt yếu
 * Mặt mạnh
 - Đồ dùng và trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kể chuyện tương đối đầy đủ.
 - Giáo viên nhiệt tình học hỏi, linh hoạt, sáng tạo. 
 - Học sinh hứng thú, hoạt động tích cực trong giờ kể chuyện
 - Trẻ tham gia tích cực, vui vẻ và phát huy được khả năng của mình 
 - Trẻ có cơ hội để thể hiện mình trước mọi người, được kể chuyện, được thảo luận với bạn. 
 - Rèn cho trẻ kỹ năng kể chuyện mạch lạc và diễn cảm
 * Mặt yếu
- Khả năng chú ý tiếp thu của trẻ còn hạn chế, một số trẻ chưa mạnh dạn, thiếu tự tin, kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn.
 - Phòng học chật, chưa đúng quy cách và tiêu chuẩn trường mầm non 
 d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
 - Phương pháp cho trẻ làm quen văn học còn rập khuôn, cứng nhắc, chưa đồng loạt trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen với văn học nói chung xoay quanh chủ đề . 
- Giáo viên thường tổ chức cho trẻ chơi để nhằm đạt một số kỹ năng theo yêu cầu bài học.
- Trong khi dạy trẻ giáo viên thường hay chú ý đến kết quả dạy trẻ, để nhận xét, đánh giá mà chưa chú ý đến quá trình hoạt động của trẻ. 
 - Với những nguyên nhân trên tôi phải khắc phục dần, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng, chuẩn nhất trong giao tiếp hàng ngày và hướng dẫn trẻ làm quen văn học đặc biệt là thể loại kể chuyện.
 * Khảo sát đầu năm
+ Khi chưa thực hiện
Khả năng
Sĩ số
Số trẻ 
đạt yêu cầu
Số trẻ chưa đạt
Phát âm rõ ràng mạch lạc
35
19 = 54%
16 = 46%
Hứng thú kể chuyện sáng tạo
35
10 = 28,6%
25 = 71,4%
Biết thể hiện ngữ điệu, hoàn cảnh
35
6= 17%
29 = 83%
 e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
 Qua quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi nhận thấy rằng:
Cô giáo phải lựa chọn các phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy để thu hút sự chú ý tập trung của trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao. Muốn vậy cô giáo phải; lấy trẻ làm trung tâm phát huy tính tích cự của trẻ, dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp.
Một yêu cầu đối với giáo viên khi dạy trẻ làm quen với văn học là kiến thức truyền đạt đến trẻ phải ngắn gọn, dễ hiểu, luôn sáng tạo, đổi mới. ngoài ra để tạo hứng thú và sự tập trung chú ý của trẻ thì cô giáo phải có nghệ thuật lên lớp, ngôn ngữ diễn đạt, kể chuyện phải diễn cảm, logic...
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 
Nói chung, cô phải nghiên cứu kỹ các tác phẩm trước khi đọc, kể cho trẻ nghe để thể hiện giọng, ngữ điệu phù hợp với diễn biến tâm trạng, hành động của mỗi nhân vật để truyền đạt cho trẻ một cách hấp dẫn, sinh động, tạo sự hứng thú cho trẻ , để trẻ lắng nghe và lĩnh hội trọn vẹn câu chuyện một cách tốt nhất.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
 Để giải quyết được những vấn đề trên, trước mỗi tiết dạy cô phải chuẩn bị chu đáo giáo án, đồ dùng trực quan phong phú để gây hứng thú cho trẻ như tranh ảnh, con rối, mô hình, sưu tầm các bài vè, bài thơ dân gian, bài hát dân ca, câu đố, giáo dục môi trường phù hợp để lồng ghép vào từng tiết dạy.
Tự học, tự rèn luyện để có kỹ năng đọc, kể tự tin, diễn cảm,; dành nhiều thời gian để nghiên cứu tác phẩm, xem nội dung tác phẩm đó giáo dục trẻ những gì, đó có thể là con người cũng có thể là các loài vật với những tính cách đạo đức khác nhau như: hiền hay ác, nhanh hay chậm, nhút nhát hay dũng cảm, khiêm tốn hay kiêu ngạo,  để lồng ghép giáo dục một cách nhẹ nhàng mà có hiệu quả.
Ví dụ: Truyện "Rùa và Thỏ" giáo dục trẻ không nên chủ quan, coi thường người khác. Nhờ sự thông minh, kiên trì của "Chú Rùa" chậm chạp đã về đích trước. Còn “Chú Thỏ” kiêu ngạo bị thua cuộc.
Ví dụ: Truyện “Quả bầu tiên” , qua câu chuyện giúp trẻ biết được “lão nhà giàu” tham lam, ác độc bị rắn rết cắn chết. “Cậu bé” hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng hay giúp đỡ mọi người nên được sống một cuộc sống vui vẻ, đầy đủ 
Qua những câu chuyện này đã giúp tôi xác định được một hệ thống câu hỏi cho phần đàm thoại. Xác định được giọng kể phù hợp với từng nhân vật và diễn biến câu chuyện.
* Biện pháp 1 : Sử dụng dụng cụ trực quan.
 Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng các phương tiện trực quan và luôn đổi mới để thu hút trẻ như các sự vật, hiện tượng gần gũi như: nhà cửa, cây cối, sông hồ, rừng núi... 
 Khi kể chuyện có tranh ảnh minh hoạ kể đến đâu tôi sử dụng hình ảnh tương ứng với đoạn chuyện đó. Dùng thước chỉ chính xác vào nhân vật đang kể. 
Kể chuyện cho trẻ nghe bằng màn hình Power Point, những hình ảnh sinh động ngộ nghĩnh phù hợp với nội dung và các tình tiết trong chuyện. Giọng kể diễn cảm, mỗi nhân vật có giọng nói khác nhau gây hứng thú và lôi cuốn trẻ vào giờ kể chuyện.
* Biện pháp 2: Đọc và kể chuyện cho trẻ nghe.
Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa thể đọc được các tác phẩm văn học. Muốn đưa được các tác phẩm văn học đến với trẻ thì phải qua yếu tố trung gian đó là lời kể, giọng đọc của cô giáo hoặc của ông bà, cha mẹ, anh chị. Phải phân biệt giữa đọc và kể khác nhau.
	Ví dụ: Truyện "Chú Dê Đen" giọng nói của nhân vật "Dê Đen" to, hung dữ, ồm ồm còn nhân vật "Dê Trắng" giọng kể nhỏ hơn run sợ.
 Khi đọc chuyện cho trẻ nghe là đọc trọn vẹn nguyên văn tác phẩm. Còn kể chuyện là kể lại nội dung chính của câu chuyện. Trong khi kể tôi có thể thêm hoặc bớt đi các chi tiết mà không làm ảnh hưởng đến nội dung chuyện. 
Khi kể tôi phải xác định câu chuyện đó thuộc loại nào, cổ tích hay ngụ ngôn... để tìm hiểu ý của từng đoạn mà thể hiện giọng đọc, kể cho phù hợp với tính cách của mỗi nhân vật. Cùng một nhân vật nhưng trong các bối cảnh khác nhau, sắc thái ngôn ngữ cũng khác nhau. Bằng những biện pháp nhân hoá gắn với kỹ thuật cường độ, nhịp điệu, ngắt giọng, cử chỉ, ánh mắt để thể hiện rõ nét.
VD: câu chuyện "Cáo, Thỏ, Gà trống" thì giọng của " Cáo" khi đuổi "Bầy Chó và bác Gấu" giọng nói to, nhấn mạnh giọng và nhanh, còn lúc gặp "chú Gà Trống" lúc này "Cáo" sợ hãi nên thế hiện giọng nhỏ hơn và chậm lại. 
Khi kể chuyện cô cần sử dụng cử chỉ điệu bộ ánh mắt để hỗ trợ thêm cho giọng kể của mình. 
*Biện pháp 3: Đàm thoại theo nội dung chuyện.
 Đây là phương pháp đàm thoại giữa cô và trẻ trong đó cô giữ vai trò chủ động. Để đặt ra những câu hỏi cho trẻ trả lời và ngược lại cô gợi ý trẻ đặt câu hỏi, đồng thời cô gợi ý nếu trẻ gặp khó khăn hoặc để trẻ trả lời được những câu hỏi cao hơn so với trình độ của trẻ nhằm phát huy tính tích cực của trẻ. Câu hỏi của cô đặt phải ngắn gọn, rõ ràng, rõ ý. Cô đặt câu hỏi chung cho cả lớp yêu cầu trẻ suy nghĩ và trả lời cho đúng. Sau đó yêu cầu trẻ giơ tay, gọi một trẻ trong số các trẻ giơ tay trả lời nhắc cả lớp nghe câu trả lời của bạn và kiểm tra lại ý kiến của mình. Có thể gọi thêm một vài trẻ khác trả lời hoặc nhận xét câu trả lời của bạn nhằm khuyến khích sự mạnh dạn tự tin ở trẻ. Sửa những câu trả lời không đúng, thiếu chính xác bằng các câu nói nhẹ nhàng (Bạn đã có tinh thần xung phong...Vậy bạn nào có nhận xét khác không?; ...)
 Ví dụ: trong chuyện “Quả bầu tiên” cô đặt câu hỏi: Trong chuyện có những nhân vật nào? Các con có nhận xét gì về các nhân vật? Các con yêu nhân vật nào? Vì sao? 
Đàm thoại có tác dụng lớn đối với giáo dục trẻ. Vì trẻ thích tìm tòi thắc mắc, ngược lại trong khi đàm thoại giúp cho tôi biết được nhận thức của trẻ tới đâu và biết được khả năng lĩnh hội kiến thức của từng trẻ cũng như khả năng diễn đạt bằng lời.
Đàm thoại giúp cho trẻ biết so sánh, nhân cách hoá lên từng câu chuyện để phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.
*Biện pháp 4: Dạy trẻ kể lại chuyện.
Là phương pháp thực hành tốt nhất. Phương pháp này không thể tách rời phương pháp kể chuyện diễn cảm, đàm thoại và trực quan, có tiến hành tốt các phương pháp trên thì mới tiến hành tốt phương pháp kể lại chuyện.
Khi dạy trẻ kể lại chuyện tôi thường tiến hành qua các bước sau:
 Giới thiệu tác phẩm để giúp trẻ nhớ lại và hiểu tác phẩm hơn. Với những câu chuyện mang tính đối thoại như “Chú Dê Đen; Cáo, Thỏ, Gà trống” tôi thường đóng vai người dẫn chuyện để dẫn dắt trẻ, cô kể đoạn đầu còn trẻ kể đoạn đối thoại.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” tôi tập cho trẻ kể từng câu ở đoạn đối thoại. Khi trẻ đã nhớ thì cô bắt đầu kể các đoạn dẫn, còn trẻ kể đoạn đối thoại.
Trong khi trẻ kể cô theo sửa những chỗ cháu chưa thể hiện đúng giọng điệu, tính cách nhân vật hay khi ngắt giọng... 
*Biện pháp 5: Lồng ghép kể chuyện vào các môn học khác
Cô giáo là người xác định chủ đề lên kế hoạch tổ chức lồng ghép các môn học một cách hợp lý để trẻ phát huy hứng thú, khuyển khích trẻ tích cực chủ động trong tiết học. 
Với lời kể diễn cảm, hấp dẫn nhưng biết tích hợp các môn học khác thì sẻ hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
 Ví dụ: Bài thơ “Thỏ bông bị ốm”, “Ong và bướm”.hoặc cho trẻ đọc thuộc các một số bài đồng dao, ca dao “Vè chim”, “Đi cầu đi quán”. 
Việc tích hợp các môn học khác giáo viên phải linh hoạt, lựa chọn nội dung, kết hợp nhuần nhuyễn sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh nhất.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải nỗ lực hết mình và dành nhiều thời gian nghiên cứu và đầu tư vào việc giảng dạy, xây dựng kế hoạch cụ thể, đi sâu nội dung bài dạy.
Tự bản thân của mỗi giáo viên phải không ngừng học tập để cập nhật thông tin, kiến thức.
Giáo viên cần được sự hỗ trợ về thiết bị dạy học thiết thực và hiệu quả cùng với việc linh hoạt, chủ động làm đồ dùng dạy học của mỗi giáo viên.
 Điều quan trọng hơn hết, mỗi giáo viên phải có tâm huyết với nghề.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
 Để thực hiện thành công của một tiết dạy, chúng ta cần vận dụng phối hợp các giải pháp, biện pháp một cách hài hòa, phù hợp với mục tiêu bài, điều kiện, trình độ, khả năng...của học sinh, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. 
 Nếu tất cả biện pháp đều có sự kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì việc làm cho các cháu yêu thích môn làm quen văn học, tự tìm đến các câu chuyện phù hợp của lứa tuổi mình.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với việc áp dụng một số biện pháp trên vào giờ kể chuyện cho trẻ tại lớp tôi thấy được kết quả như sau:
Trẻ đã hứng thú vào giờ kể chuyện hơn trước, khả năng tiếp thu các câu chuyện của trẻ cũng tăng lên rõ rệt, số trẻ kể lại được các câu chuyện nhiều hơn.
Các cháu tỏ ra nhanh nhẹn và mạnh dạn tự tin phát âm rõ ràng, mạch lạc, thể hiện đúng ngữ điệu, hoàn cảnh của câu chuyện. 
* Kết quả sau khi thực hiện:
Khả năng
Sĩ số
Số trẻ
đạt yêu cầu
Số trẻ chưa đạt
Phát âm rõ ràng mạch lạc
35
29 = 83%
6 = 17%
Hứng thú kể chuyện sáng tạo
35
30 = 86%
5 = 14%
Biết thể hiện ngữ điệu, hoàn cảnh
35
25= 71%
10 = 29%
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
 Qua kết quả trên, tôi nhận thấy những biện pháp nghiên cứu của mình về việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn làm quen văn học là rất khả thi. Với những biện pháp này có thể tạo nên sự năng động, nhiệt tình của cả người dạy và người học. Trong đó, người dạy có ý thức trách nhiệm với tiết dạy, tạo nên một hình ảnh người cô giáo mẫu mực, tận tụy trong con mắt của học sinh.
Còn đối với học sinh, với những biện pháp giảng dạy theo đề tài nghiên cứu của tôi trẻ hứng thú, tích cực vào hoạt động cô đã tạo ở trong lớp, có kỹ năng tham gia vào các hoạt động, bổ sung kiến thức khá phong phú, cũng có kiến thức vững vàng. Với những nội dung trên, chứng tỏ các biện pháp mà tôi đã nghiên cứu trong đề tài này có tính thực tế, mang tính khoa học và đem lại hiệu quả cao hơn trước.
III. Kết luận và kiến nghị
III.1. Kết luận
Qua một học kì, tôi đã nghiên cứu và khảo nghiệm đề tài của mình. Trong đó, tôi đã sử dụng nhiều biện pháp. Nhưng tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng giờ kể chuyện cho học sinh không có cách nào tốt hơn là người giáo viên phải kích thích được sự ham thích môn học. Muốn làm được điều đó, tùy theo từng lớp học, từng bài giảng mà người giáo viên sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp giảng dạy. Nhưng vấn đề trọng tâm là phải nâng cao vai trò của học sinh, đưa các em lên làm nhân vật trung tâm của mỗi tiết dạy. Người giáo viên phải thực hiện được “lấy học sinh làm trung tâm”. Có như vậy mới phát huy được tính tích cực sáng tạo của trẻ từng tiết học.
 Muốn cho chất lượng và hiệu quả giảng dạy tốt nhất thì người giáo viên, trước hết phải có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ thực sự, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng trẻ, coi trẻ như con của mình. Như vậy thì mới khắc phục được những khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Mặt khác, giáo viên phải không ngừng tự học, tự rèn luyện, tìm tòi, sáng tạo nâng cao trình độ chuyên môn; sưu tầm các trò chơi dân gian, bài hát dân ca, ca dao, đồng dao, câu đố,để đưa vào tiết dạy; nghiên cứu kỹ các tác phẩm văn học, luyện kỹ năng kể chuyện diễn cảm,...; tăng cường giao tiếp tiếng Việt cho trẻ vào mọi lúc, mọi nơi; tham dự các chuyên đề, các tiết dạy mẫu để rút kinh nghiệm; đầu tư làm đồ dùng, đồ chơi và thay đổi nhiều phương pháp mới trong phần giới thiệu và kết thúc để thu hút trẻ.
 Ngoài ra giáo viên cần sử dụng dụng cụ trực quan đa dạng và sinh động; tìm các thủ thuật đàm thoại hay để phát huy hết khả năng hiểu biết của trẻ; thường xuyên cho trẻ ôn luyện, tập kể vào mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt cô phải kiên trì dạy trẻ theo quy trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp giúp trẻ nắm bắt một cách thật hồn nhiên và vô tư. Cô khen ngợi, động viên trẻ kịp thời để trẻ cảm thấy tự tin và vui sướng tham gia vào tiết học. 
Giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức văn học đến với các bậc phụ huynh để cùng phối hợp chăm sóc giáo dục trẻ; t

Tài liệu đính kèm:

  • doc52SKKN Trần Thị Vinh MN KRONG ANA NH 14-15.doc