Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua các hoạt động học tập và giáo dục

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua các hoạt động học tập và giáo dục

1.2. Điểm mới của đề tài:

Giúp HS có những kĩ năng sống tốt hơn như giao tiếp tốt, thích nghi với môi

trường sống ở địa phương, yêu lao động. Biết cách xử lí tốt trong va chạm thực tế

như gặp thiên tai hỏa hoạn , trong các tệ nạn xã hội như tệ nạn bắt cóc trẻ con, tệ

nạn quấy rối , kĩ năng thoát hiểm, kĩ năng ứng xử, kĩ năng kiềm chế bản thân, kĩ

năng tìm kiếm sự hỗ trợ.

Giúp HS có kỹ năng giao tiếp nhằm hình thành và phát triển năng lực và

phẩm chất theo hướng tích cực giúp HS tự tin sáng tạo trong việc tìm tòi, khám

phá tri thức.

Tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức cho phụ huynh trong công

tác giáo dục học sinh. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ

huynh thông qua việc thiết lập kênh thông tin điện tử: Bằng điện thoại, gmail.để

trao đổi các thông tin kịp thời về công tác giáo dục học sinh đối với các phụ huynh,

hộ gia đình đi làm ăn xa. Hình thành thói quen cho phụ huynh thường xuyên quan

tâm, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập.

Phối hợp với giáo viên bộ môn tạo cho các em môi trường giao tiếp tốt. Dạy

lồng ghép tích hợp các kĩ năng sống, từ đó các em có nền nếp học tập tự giác, tích

cực, đồng thời nâng cao chất lượng công tác giáo dục về năng lực, phẩm chất, cũng

như kĩ năng sống cho học sinh.

pdf 18 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 1154Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua các hoạt động học tập và giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa trung thực, tôi thường dùng các câu chuyện có tình 
huống để kể cho các em nghe, cho các em liên hệ giáo dục qua câu chuyện đó. 
2.2.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ 
năng thông của các em ở lớp 3: 
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể trong công tác 
chuyển giao tiếp nhận học sinh từ lớp dưới. 
Vào kì kiểm tra chuyển giao cuối mỗi năm học Ban giám hiệu trường tiểu 
học thống nhất và có dự kiến phân công GVCN lớp năm sau tiến hành coi chấm thi 
nghiệm thu chất lượng của lớp dưới. Tiến hành kiểm tra kiến thức và năng lực của 
học sinh. Qua kiểm tra tôi đã nắm bắt được những học sinh có năng lực nổi trội 
hoặc còn hạn chế như: Em nào đọc tốt, rõ lưu loát, học sinh nào viết chữ đẹp, em 
nào nắm chắc về toán, em có kĩ năng tính toán chậm, diễn đạt trong viết văn còn 
lủng củng...... 
 Ngoài ra tôi còn gặp giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em để tìm hiểu rõ 
về tình hình mọi mặt của từng học sinh, để nắm được các mặt mạnh, mặt yếu của 
từng học sinh, đặc biệt là năng lực của các em. Qua đó, tôi biết được học sinh nào 
học giỏi, có năng lực nổi trội nào, học sinh nào ngoan, gia đình của học sinh đã 
quan tâm đến các em...để từ đó có biện pháp cụ thể hơn cho lớp mình trong năm 
học tới. 
Ví dụ: Ở lớp 3 có em Đoàn Văn Tài hiện đang là học sinh lớp 4 tôi chủ 
nhiệm, ở lớp 3 em là học sinh tiếp thu chậm, em là học sinh ở lại lớp hồi lớp 1, em 
ít nói ,ít tham gia các hoạt động nhưng em thích cách nói nhẹ nhàng, thích khen . 
7 
Hay em Lê Thị Mĩ Kiều, ở lớp 3 em có năng lực quản lý tốt, bốn năm liền làm lớp 
trưởng từ lớp 1-4, em Đoàn Nguyễn Quỳnh Anh có năng khiếu nổi trội là viết chữ 
đẹp. Có hai em Nguyễn Trần Sao Sáng và Nguyễn Trọng Oai Sang ở địa bàn xã 
Kim Thủy đường đến trường rất xa và phải đi qua mốt số chỗ nước hay ngập khi 
có mưa, Có em Hoàng Thị Ni Na Nhà sát đường Hồ Chí Minh đường đến trường 
cũng xa và ít người qua lại,trong lớp còn có nhiều học sinh ở với ông bà vì bố mẹ 
bận làm ăn xa ... 
Qua việc nắm bắt tình hình của từng học sinh, giáo viên lên kế hoạch đặt ra 
mục tiêu cụ thể cho từng học sinh của lớp mình để giúp các em vừa học tốt vừa 
phát huy được thế mạnh của mình cũng như kĩ năng sống cho các em. 
2.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học : 
Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó có 
biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra Hội đồng tự quản của lớp. 
Hội đồng tự quản phải là người có năng lực tự học tốt, đối xử hoà đồng với bạn bè, 
mạnh dạn, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong công việc được giao, có khả năng điều 
hành, tự quản lớp hoạt động tốt. 
Xây dựng lớp có nề nếp tốt tức là tạo cho các em học sinh có năng lực tự 
quản tốt, vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả 
năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được 
nề nếp tự quản, bầu chọn được Hội đồng tự quản của lớp gồm: 1 Chủ tịch Hội 
đồng, 2 Phó Chủ tịch, 5 trưởng ban phụ trách theo các ban: Ban học tập, văn nghệ, 
sức khỏe, đối ngoại, thư viện. Sau khi bầu xong, giáo viên họp Hội đồng tự quản 
và các trưởng ban để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em. GVCN cùng 
Hội đồng tự quản và các ban xây dựng các nội quy của lớp cụ thể, rõ ràng cho cả 
năm học. 
 Ngoài ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng 
mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của 
lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ 
nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học 
sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học 
sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục nghiêm khắc nhưng cởi mở 
gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối 
không trù ém sĩ nhục học sinh. 
 Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều 
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như vào lớp 
thuộc bài, lên lớp hiểu bài, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp Ban học tập 
kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ... Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng 
góp một phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ 
đầu năm học, giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy 
8 
lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường và 5 điều Bác Hồ 
dạy. 
 Giáo viên luôn động viên, khuyến khích các cá nhận, nhóm, tổ thi đua với 
nhau, nếu nhóm nào có một em đi học muộn hoặc nghỉ học không có giấy xin phép 
của cha mẹ các em thì xét thi đua nhóm đó đứng sau các nhóm không có em nào vi 
phạm. Muốn động viên phong trào thi đua thì giáo viên chủ nhiệm phải công minh, 
tuyệt đối không thiên vị theo cảm tính, từ đó gây lòng tin với các em. 
 Không những giáo dục học sinh có nề nếp tốt trong giờ học, trong lớp mà 
còn thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt 
ngoài giờ. 
 Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để Hội đồng tự 
quản, Trưởng ban học tập kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào 
truy bài dưới sự chỉ đạo của nhóm trưởng cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy 
giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt. 
 Nhưng cũng không phải phó mặc, giáo viên không chỉ nghe Hội đồng tự 
quản báo cáo kết quả chuẩn bị bài của các em mà có thể kiểm tra đột xuất 1, 2 bài 
trong mỗi nhóm. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm mất giờ 
dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế đùa nghịch của 
các em khi chưa vào học. 
 2.2.4. Biện pháp 4: Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các 
biện pháp cụ thể để giáo dục học sinh: 
 Căn cứ vào tình hình của lớp sau một thời gian học tập, tiến hành phân loại đối 
tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh tốt, có bao nhiêu học chưa 
tốt. Để có biện pháp giáo dục các em về mặt nào, môn nào để còn kịp thời bồi 
dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp. 
Những em yếu, chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi vị trí giáo viên dễ tiếp 
cận, xếp một em học tốt ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em kèm bạn yếu qua 
từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo 
dõi hướng dẫn, tiếp sức học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các em 
qua từng bài học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy nâng cao kiến thức bồi 
dưỡng học sinh có năng lực học tập tốt. 
Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em 
hát tập thể, chơi các trò chơi dân gian để giúp các em càng gần nhau hơn, thân 
thiện cùng nhau hơn, giúp các em phát huy khả năng giao tiếp, ứng xử tình huống 
dễ dàng hơn. 
Giáo viên gặp gỡ phụ huynh thường xuyên để tìm hiểu thêm về hoàn cảnh 
riêng của từng em, từ đó có cách giúp đỡ cho phù hợp. Đồng thời kêu gọi sự phối 
hợp chặt chẽ giữa phụ huynh và giáo viên trong việc xây dựng thời gian biểu học ở 
nhà, nhắc nhở việc chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp, kiểm tra bài làm, 
bài học ở nhà cho hoàn chỉnh. 
9 
Đối với học sinh cá biệt, giáo viên cần phải tăng cường việc gặp gỡ, trao đổi 
thường xuyên với phụ huynh để nắm rõ nguyên nhân, từ đó tìm biện pháp khả thi 
nhất để giúp đỡ em nhiều hơn. Chú ý khai thác điểm tốt dù nhỏ nhất để khích lệ, 
động viên, khen thưởng kịp thời, gây sự chú ý, ngưỡng mộ của các bạn trong lớp, 
tạo niền tin, để các em thấy được việc học là quan trọng, là tương lai sau này của 
một đời người, là niềm hy vọng của gia đình và xã hội, từ đó các em sẽ có ý thức 
hơn và chuyển hướng rõ rệt. Điều tối kỵ nhất là đừng nhìn các em với cái nhìn gay 
gắt, và không nên nhớ hoài những thói hư, tật xấu của các em, với cái tâm của một 
người thầy, của một người mẹ hãy mở rộng tấm lòng vị tha với các em hơn mới 
thật sự cảm hóa các em dần hoàn thiện hơn. 
Đối với những em gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn, giáo viên cần có sự 
quan tâm đặc biệt hơn, tham mưu với lãnh đạo nhà trường với Ban đại diện CMHS 
hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần tạo điều kiện cho các em được tham gia 
học tập tốt, ngoài ra giáo viên cần phải trao đổi với phụ huynh động viên cho các 
em đi học chuyên cần, không bỏ dở nữa chừng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. 
Không chỉ quan tâm đến học sinh cá biệt mà một khâu quan trọng trong 
công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phải quan tâm đến những em tốt, những em có 
năng khiếu bẩm sinh như vẽ đẹp, hát hay, kể chuyện tốt cử tham gia các phong 
trào nhà trường hay địa phương tổ chức vừa giúp các em phát huy được khả năng 
vừa được điểm phong trào cho lớp, cho trường. 
 Trong giảng dạy, giáo viên phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy 
ra và cách ứng xử với học sinh. Thực hiện công tác giáo dục toàn diện thông qua 
việc kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thường xuyên liên hệ 
trao đổi thông tin hai chiều với phụ huynh hoặc đến nhà để trao đổi tình hình học 
tập của học sinh. Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như: 
Đôi bạn cùng tiến, Nhóm học tập tự quản... Qua đó thường xuyên kiểm tra động 
viên khuyến khích các em bằng phong trào hội hoa học tốt. 
2.2.5. Biện pháp 5: Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học 
sinh và giữa học sinh với học sinh: 
* Xây dựng mối quan hệ thầy- trò: 
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới; 
giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công-hợp 
tác. Thầy thiết kế-trò thi công. Thầy giao việc-trò làm. Mỗi lời thầy nói ra phải là 
một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi 
hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. 
Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, 
nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan 
hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc- học trò 
làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện. 
Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách 
làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào 
thì phẩm chất, năng lực sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức 
10 
kỉ luật cũng đến nơi đến chốn. Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến 
tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý 
đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để 
học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề 
xòa, qua loa trước mặt học sinh. 
Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại 
chứ không phê phán ngay. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp. 
Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học 
sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa 
chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, 
lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan nát tâm hồn 
trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở 
lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động. 
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học 
yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các 
em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. 
Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện 
khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu 
phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập. 
Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi 
cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn,...nên không để ý gì đến việc học của con cái, thậm 
chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập... Những sóng gió đó đã tác động đến 
tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được 
những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các 
em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy-trò. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy 
phá, hay lơ đãng không chịu hợp tác làm bài, tôi luôn bình tĩnh chờ đến hết buổi 
học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ 
nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu 
nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em. 
Hàng ngày, luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu 
điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra những ưu điểm 
nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không 
quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. 
Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của 
học sinh, luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy 
đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng 
sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của 
người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học 
thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì 
học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ 
chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học. 
11 
Trong các giờ ra chơi hay các hoạt động trải nghiệm tôi tìm cách trò chuyện, 
tâm sự với các em như một người bạn, hỏi han các em để biết các em nghĩ gì, quan 
điểm và cách nghĩ của em như thế nào về một vài tình huống trong cuốc sống, về 
cách ứng xử hàng ngày để từ đó nắm bắt được tâm lí hay vướng mắc hoặc những 
điều khó nói mà các em không biết bày tỏ cùng ai. Từ đó tôi sẽ giúp các em suy 
nghĩ tích cực hơn, ửng xử đúng hơn để các em có các kĩ năng sống tốt hơn. 
* Xây dựng mối quan hệ bạn bè: 
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình 
ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy, nếu các em có 
nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp 
đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học 
yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ 
(Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện 
một số em chia bè phái, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. 
Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Còn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả 
thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh 
hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên 
chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè 
đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi 
trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập 
của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. 
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp 
đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác 
của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau: 
- Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, 
các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn 
khác. Lúc đầu có em chưa chịu, tuy ngồi chung nhóm nhưng có em lại quay mặt ra 
chỗ khác, hoặc ngồi im không tham gia, ai muốn làm gì thì làm; có nhóm lại cãi 
nhau, không ai chịu làm nhóm trưởng hoặc đùn đẩy nhau không chịu ghi kết quả 
thảo luận vào phiếu, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình trạng đó, tôi 
tiến hành đánh giá kết quả của từng nhóm và lấy kết quả đó chung cho tất cả các 
thành viên của nhóm. Do đó, những em khá, giỏi buộc phải tích cực. Còn những 
em không tích cực hợp tác, cho ngồi riêng một mình và phải làm toàn bộ công việc 
của một nhóm. Bị ngồi một mình nên không thể hoàn thành công việc. Cứ như 
vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện. 
 - Khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm, 
cách cư xử của Hội đồng tự quản hoặc của một bạn nào đó thông qua hộp thư bè 
bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả 
lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi 
phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị 
bạn phê bình, yêu cầu các em phải sửa chữa. 
12 
 - Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp 
không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi 
riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích 
rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt 
tay nhau vui vẻ trở lại. 
 - Ngay từ đầu năm tối cho các em thành lập các đôi bạn cùng tiến, nhóm 
mình đoàn kết và luôn kiểm tra sự tiến bộ của các đôi, các nhóm.Kịp thời khen 
thưởng các đôi tiến bộ, các nhóm đoàn kết để khích lệ các em, tạo ra môi trường 
thân thiện, các em biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. 
 - Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc 
của tuổi học trò, tôi tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong giờ ra 
chơi. Những em có ngày sinh trùng vào ngày thứ bảy, chủ nhật thì sẽ được tổ chức 
vào sáng thứ bảy. Hình thức tổ chức do các em trong Hội đồng tự quản, các nhóm 
trưởng bàn bạc và quyết định. Nhưng chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc 
mừng và một món quà nhỏ khoảng vài chục ngàn đồng do cả lớp đóng góp. Có rất 
nhiều em không nhớ ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ được cha mẹ tổ 
chức sinh nhật, chưa bao giờ được nhận một món quà mang ý nghĩa sâu sắc. Vì 
vậy, khi được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động. 
2.2.6. Biện pháp 6: Vận dụng tốt mô hình dạy học Mô hình trường học 
mới là con đường hình thành một số năng lực và phẩm chất cho học sinh tốt 
nhất. 
Vận dụng phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới là thông qua 
các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bỡi GV( hay công cụ học 
tập), học sinh không thụ động chờ đợi mà tự lực tích cực tham gia vào quá trình 
tìm kiếm, khám phá, phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức. Vận dụng phương pháp này, 
GV chỉ là người mở đường, hướng dẫn, tổ chức cho HS làm việc, thường xuyên 
giúp đỡ từng học sinh, quan tâm đến từng cá thể trong nhóm để đánh giá kịp thời 
sự tiến bộ của các em. Còn học sinh giữ vai trong trung tâm, hình thành phương 
pháp học tập, làm việc tích cực, chủ động, sáng tạo, qua đó hình thành tốt các năng 
lực như: năng lực tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề... 
2.2.7. Biện pháp 7: Thực hiện tốt khấu đánh thường xuyên và cuối kỳ, cuối 
năm cho học sinh theo Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 
22/2016/TT-BGDĐT giúp học sinh biết được kịp thời những hạn chế của mình về 
phẩm chất, năng lực từ đó có những điều chỉnh theo hướng tích cực. 
2.2.8. Biện pháp 8: Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội: 
Đây là biện pháp thiết yếu, ngoài việc giúp các em phát triển được năng lực 
phẩm chất tốt còn phát triển tốt các kĩ năng sống cho các em thông qua việc dạy 
lồng ghép kĩ năng sống trong các môn học, 
* Kết hợp với giáo viên bộ môn: Việc hình thành và phát triển năng lực, 
phẩm chất cũng như kĩ năng sống cho học sinh được trải nghiệm qua tất cả các 
môn học, ngoài môn Toán, Tiếng Việt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục. Vì vậy tôi 
đã kết hợp với giáo viên bộ môn rèn các nề nếp cho các em. 
13 
Ví dụ: Như khi dạy môn Khoa học bài 11: Phòng tránh tai nạn đuối nước tối 
sẽ danh thời gian dạy lòng ghép cho các em cách thoát hiểm khi không may bị rơi 
xuống nước. Tôi sẽ đặt vấn đề nếu không may rơi xuống nước, nguy hiểm đến tính 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_bien_phap_hinh_thanh_nang_luc_pham_chat_va_giao_duc_k.pdf