Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Các biện pháp nêu ra tuy khác nhau về mặt nội dung và phương pháp nhưng đều có mối quan hệ mật thiết, khăng khít, hỗ trợ cho nhau.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
* Kết quả khảo nghiệm:
Các biện pháp tôi đưa ra đã phù hợp với điều kiện thực tế của lớp. Chất lượng giảng dạy nâng lên rõ rệt, học sinh đi học chuyên cần hơn, yêu
thích học toán hơn.
Bên cạnh việc khảo sát, qua việc áp dụng đề tài trong lớp. Bản thân tôi cũng tự tin và nhiều sáng tạo hơn khi dạy trẻ, biết kết hợp đan xen các hình thức cũng như lồng ghép trong phương pháp giảng dạy, biết tận dụng những cái mới lạ vào các hoạt động để các cháu hứng thú hơn.
n thiết, giúp trẻ trở nên có tổ chức, có kỹ luật, biết chú ý lắng nghe và ghi nhớ, tích cực và độc lập giải quyết nhiệm vụ được giao đúng thời gian quy định, qua đó trẻ được giáo dục trở nên có định hướng, có tổ chức, có trách nhiệm. Trong quá trình hình thành những biểu tượng số lượng toán học cho trẻ đồng thời sẽ hình thành các mối quan hệ giữa giáo viên với tập thể trẻ, giữa giáo viên với cá nhân trẻ, giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với môi trường xung quanh. Việc dạy học những kiến thức toán không chỉ góp phần phát triển các năng lực nhận biết, năng lực học tập cho trẻ, mà còn góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ. Việc dạy cho trẻ nắm chắc các kiến thức trong hoạt động làm quen với biểu tượng số lượng, thông qua hoạt động làm quen với toán để phát triển toàn diện cho trẻ nhất là lĩnh vực phát triển nhận thức. Việc tổ chức cho trẻ làm quen với toán phải đưa ra các biện pháp hữu ích và trẻ phải được nói và làm, giáo viên không nên nói và làm thay trẻ. I.3. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là học sinh lớp lá 1 trường mầm non Krông Ana. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu là học sinh (5 – 6 tuổi) trường mầm non Krông Ana. I.5. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu tài liệu + Phương pháp quan sát, đàm thoại + Phương pháp thực hành + Phương pháp trải nghiệm thực tiễn. II. Phần nội dung II.1. Cơ sở lí luận Trẻ sinh ra và lớn lên giữa thế giới của những sự vật và hiện tượng đa dạng. Ngay từ nhỏ trẻ đã được tiếp xúc và làm quen với những nhóm vật có màu sắc, kích thước và số lượng phong phú, với các âm thanh, chuyển động có ở xung quanh trẻ. Trẻ lĩnh hội số lượng của chúng bằng các giác quan khác nhau như: thị giác, thính giác, giác quan vận động... Từ đó, trẻ đã tích lũy được một vốn tri thức và kinh nghiệm sống, điều quan trọng là tổ chức cho trẻ biết sử dụng vốn tri thức và kinh nghiệm ấy vào các hoạt động học tập và vui chơi. Được sự giúp đỡ của người lớn cùng với việc nắm được ngôn ngữ tích cực trẻ đã nhận biết, phân biệt và nắm được tên gọi của các nhóm vật. Trong quá trình thao tác với nhóm vật, ở trẻ hình thành hứng thú phân biệt các nhóm vật có số lượng là một và nhiều và trẻ lĩnh hội từ nhiều. Vì trẻ nhỏ thường có tính tìm tòi, tính ham hiểu biết sẽ thôi thúc trẻ tích cực hoạt động. Khi thao tác với các tập hợp cụ thể trẻ bắt đầu sử dụng tới các con số và phép đếm, trong quá trình ấy trẻ cũng xác định được mối quan hệ số lượng: bằng nhau, không bằng nhau, nhiều hơn, ít hơn. Ngoài ra trẻ còn rất thích đếm, trẻ không chỉ biết đếm xuôi mà còn biết đếm ngược, nhận biết được các con số. Trẻ hiểu rằng mỗi con số không chỉ được diễn đạt bằng lời nói mà còn có thể viết. Như vậy cần tiếp tục phát triển biểu tượng số lượng về tập hợp cho trẻ 5 - 6 tuổi, bước đầu cho trẻ làm quen với một số phép tính trên tập hợp, điều đó tạo cơ sở cho trẻ học phép tính đại số sau này ở trường phổ thông. Đứa trẻ lớn lên sẽ có lối sống thực tiễn, sâu sắc, phong phú, linh hoạt, sáng tạo và chủ động, không sống hời hợt, tẻ nhạt. Vì vậy, phát triển nhận thức là phát triển óc tìm tòi, tính ham hiểu biết của trẻ thông qua hoạt động làm quen với toán, là một yêu cầu rất cần thiết cho trẻ. II.2. Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi: Lớp có đầy đủ cơ sở vật chất trang thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ cho cô và trẻ. Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường phân công cho 2 giáo viên đứng lớp đều trẻ, tâm huyết với ngành học, yêu nghề mến trẻ, có phẩm chất nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn tiếp thu nhanh với những đổi mới trong chương trình. Giáo viên luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên đều là người địa phương gần trường, gần lớp, gần gũi với phụ huynh. * Khó khăn: Có một số trẻ bố, mẹ chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình nên việc tiếp thu bài của cháu còn chậm, còn nhút nhát với bạn bè và trong các hoạt động ở lớp, đồ dùng dạy học, đồ chơi phục vụ cho môn học còn nhiều hạn chế . b. Thành công, hạn chế * Thành công: Khi vận dụng đề tài này, thì khả năng thu nhận và vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học vào những điều kiện, hoàn cảnh mới của trẻ chứng tỏ trí tuệ trẻ đã phát triển cao hơn và trẻ đã ý thức được vai trò của những kiến thức thu được đối với thực tiễn cuộc sống. Việc trẻ sử dụng những kiến thức thu được vào thực tiễn cuộc sống sẽ làm cho chúng trở nên bền vững và sâu sắc hơn, góp phần hình thành ở trẻ kỹ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Trong quá trình dạy học việc lựa chọn nội dung dạy học luôn phải gắn liền với điều kiện sống của trẻ, nhằm luyện cho trẻ thói quen quan tâm, chú ý tới các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ, qua đó nhận biết các mối quan hệ toán học có trong các sự vật, hiện tượng đó. Qua đó cũng giúp giáo viên nắm vững phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động phong phú, thu hút được trẻ, trẻ hoạt động tích cực. * Hạn chế: Tuy nhiên với nội dung của đề tài này, nếu giáo viên không chịu khó suy nghĩ và tạo mọi điều kiện, tình huống để trẻ có thể ứng dụng những kiến thức, kỹ năng của mình vào các hoạt động thì tiết học sẽ không mang lại kết quả cao. c. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh: Với nội dung của đề tài này giúp giáo viên biết vận dụng quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ hứng thú hơn. Quá trình hình thành những biểu tượng số lượng cho trẻ ở trường mầm non không chỉ nhằm trang bị cho trẻ những kiến thức toán học sơ đẳng, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, mà còn nhằm phát triển cho trẻ những năng lực trí tuệ, năng lực học tập và những hứng thú nhận biết, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, sáng tạo hơn trong các hoạt động, qua đó góp phần giáo dục nhân cách cho trẻ. * Mặt yếu: Song nếu giáo viên không nắm vững kiến thức, không chịu khó đầu tư xây dựng môi trường hoạt động cho trẻ, không có sự linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các nội dung biện pháp của đề tài thì việc tổ chức hướng dẫn cho trẻ hoạt động sẽ không đạt hiệu quả. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Với nội dung đề tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ thực hiện. Đã có sự lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức phù hợp cho trẻ hình thành biểu tượng số lượng. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra được những ưu điểm, hạn chế của trẻ, để tổ chức cho trẻ hoạt động có hiệu quả hơn. e.Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra - Từ kết quả khái quát thực trạng của đề tài, tôi có thể đưa ra những phân tích và đánh giá sau: Qua thực trạng nêu trên thì người giáo viên phải nắm được phương pháp tổ chức hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ, tuy nhiên sự sáng tạo và linh hoạt trong quá trình tổ chức chưa cao vì vậy mà chất lượng giáo dục chưa hiệu quả. Chính vì vậy chưa lôi cuốn và thu hút được trẻ, trẻ chưa hứng thú hoạt động. Việc tổ chức hoạt động còn cứng, chưa bao quát trẻ tốt vì vậy việc khuyến khích trẻ hoạt động chưa được giáo viên chú trọng, trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn và tự tin để tham gia hoạt động. Bên cạnh đó chưa thường xuyên cho trẻ tiếp xúc nhiều với biểu tượng số lượng (trong các hoạt động mọi lúc, mọi nơi), mà đa phần trẻ tiếp xúc với biểu tượng số lượng thông qua các hoạt động học khi giáo viên tổ chức. Chính vì nhận thấy được những bất cập trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động với biểu tượng số lượng, bản thân tôi đã mạnh dạn tìm tòi, học hỏi để tìm cho mình những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình thực hiện hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ. II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Những giải pháp, biện pháp nêu ra trong đề tài nhằm giúp trẻ nâng cao việc hình thành biểu tượng số lượng được tốt hơn. Trẻ phát huy hết được tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi hoạt động. Giáo viên trau dồi thêm kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Biện pháp 1: Phương pháp dạy học thực hành Ngày nay trong việc dạy trẻ các kiến thức toán học sơ đẳng (nhất là biểu tượng về số lượng) thì phương pháp thực hành ngày càng được sử dụng thường xuyên hơn. Xu thế sử dụng các phương pháp thực hành bắt đầu được xem xét trong hệ thống các phương pháp trực quan và dùng lời. Thực tế cho thấy, việc trẻ làm quen với toán luôn được bắt đầu bằng việc tổ chức các hoạt động thực tiễn với các vật cho trẻ, trong đó hoạt động nhận biết của trẻ diễn ra trên cơ sở của các hình thức tư duy trực quan – hành động, trực quan hình tượng trong mối quan hệ gắn bó với tư duy lô gíc. Phương pháp dạy học thực hành là trẻ phải thực hiện các hành động gồm một chuỗi các thao tác cùng với việc sử dụng các đồ vật. Trên cơ sở các thao tác thực hành, hình thành ở trẻ những biểu tượng số lượng ban đầu về kiến thức, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo và kỹ năng vận dụng chúng vào các tình huống khác nhau. Trong quá trình dạy trẻ những kiến thức về biểu tượng số lượng, giáo viên cần tổ chức cho mọi trẻ được tham gia luyện tập, thông qua việc thực hiện các bài tập khác nhau. Nhờ luyện tập mà những kiến thức – cơ sở của những thao tác trí tuệ và thực hành trở nên vững chác và có ý nghĩa hơn. Ví dụ: Cho trẻ làm các bài tập so sánh số lượng các nhóm vật bằng thiết lập tương ứng 1:1 hay bài luyện tập đếm cho trẻ. Nhờ đó giáo viên có thể kiểm tra quá trình lĩnh hội của từng trẻ, cũng như trẻ có thể tự kiểm tra kết quả thực hiện bài tập của mình. Do vậy, có thể nói, luyện tập là một trong những phương pháp dạy học mang lại hiệu quả cao. Tương ứng với nhiệm vụ dạy học, thì giáo viên có thể sử dụng các bài tập đòi hỏi ở trẻ sự tích cực, độc lập với các mức độ khác nhau như: bài tập tái tạo và bài tập sáng tạo. Khi tổ chức cho trẻ thực hiện bài tập tái tạo, giáo viên đặt cho trẻ nhiệm vụ học tập cụ thể, chỉ cho trẻ biện pháp giải quyết nó bằng trình tự các thao tác mẫu và vật mẫu của mình. Ví dụ: Khi trẻ đã nắm được kỹ năng đếm, giáo viên yêu cầu trẻ thực hiện nhiệm vụ đếm xác định số lượng các nhóm vật khác nhau được xếp theo hàng ngang... Ngoài ra các bài tập có tính chất vui chơi cũng thường xuyên được sử dụng, chúng rất phù hợp với trẻ mẫu giáo (đặc biệt trẻ 5 – 6 tuổi), nó tạo cho trẻ những cảm xúc tốt và làm giảm sự căng thẳng cho trẻ. Điều này xuất phát từ đặc điểm cơ bản của dạy học mầm non là trẻ “học bằng chơi, chơi mà học”. Việc sử dụng trò chơi được coi là một phương pháp dạy học khi toàn bộ tiết học được lồng vào một trò chơi mà trẻ là người tham gia chính. Ví dụ: Trò chơi “ về đúng số nhà” được sử sụng ở phần sau của tiết học củng cố và ứng dụng kiến thức kỹ năng cho trẻ. Biện pháp 2: Phương pháp dạy học trực quan Khi sử dụng phương pháp dạy học trực quan cần phải có đầy đủ đồ dùng trực quan. Các đồ dùng này phải đẹp, đúng việc lựa chọn và sử dụng chúng phải phụ thuộc vào trẻ, vào mục đích yêu cầu của tiết học toán. Các vật trực quan cần được trưng bày đúng lúc và đặt ở nơi hợp lý để tất cả trẻ đều nhìn rõ. Ví dụ: Giáo viên sử dụng các bộ con giống, các nhóm đồ vật có trong lớp học nhằm dạy trẻ đếm số lượng các nhóm vật. Khi sử dụng đồ dùng trực quan cần lưu ý trẻ tới sự tri giác những dấu hiệu chính của sự vật, hiện tượng mà trẻ tìm hiểu. Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát bể cá, hay lọ hoa có nhiều bông hoa... với mục đích hình thành biểu tượng về “một” và “nhiều” cho trẻ, cô cần hướng trẻ chú ý tới dấu hiệu số lượng của đối tượng đó. Song không nên lạm dụng sử dụng các vật mẫu quá lâu, mà nên chuyển sang sử dụng các bài tập không dùng tới các vật mẫu để trẻ phải suy nghĩ. Trong quá trình dạy trẻ, điều quan trọng là giáo viên cần hướng dẫn trẻ sử dụng hợp lý các đồ dùng trực quan. Điều này được thể hiện ở sự kết hợp đúng đắn giữa việc tri giác trực tiếp đối tượng với lời nói. Lời nói của giáo viên phải điều khiển hành động của trẻ giúp trẻ biết sử dụng đồ dùng trực quan đúng lúc. Biện pháp 3: Phương pháp dạy học dùng lời nói Trong phương pháp hình thành các biểu tượng toán cho trẻ mầm non các câu hỏi đóng một vai trò đặc biệt. Với trẻ mẫu giáo lớn, lời hướng dẫn của giáo viên có tính tổng thể phản ánh toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ. Bằng lời nói giáo viên giảng giải chính xác lại những điều trẻ nhận biết được trong quá trình tri giác. Từ câu hỏi dựa trên sự tri giác và trí nhớ tái tạo của trẻ nhằm ghi nhận những đặc điểm bên ngoài của đối tượng, yêu cầu trẻ tả lại những điều vừa quan sát hay nhắc lại nhiệm vụ của cô. Ví dụ: Đây là cái gì? Có bao nhiêu cái? Cháu vừa làm nhiệm vụ gì? Và câu hỏi tái tạo có nhận thức giúp trẻ nắm và củng cố những kiến thức một cách sâu sắc hơn. Ví dụ: số hoa sẽ là bao nhiêu nếu thêm một bông? Làm thế nào để biết số lượng hai nhóm hoa bằng nhau? Làm thế nào để biết nhóm nào ít hơn và nhóm nào nhiều hơn?... Khi sử dụng câu hỏi giáo viên cần chú ý đặt câu hỏi phải ngắn gọn, cụ thể, đủ ý, nội dung câu hỏi phải vừa sức trẻ, các khái niệm trong câu hỏi phải quen thuộc với trẻ, nên đặt nhiều dạng câu hỏi cho một vấn đề, các câu hỏi phải có tính hệ thống, phải kích thích sự suy nghĩ của trẻ, tuyệt đối không sử dụng các câu hỏi ép trẻ trả lời. Trẻ càng lớn thì việc sử dụng câu hỏi tình huống có vấn đề càng có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển tư duy cho trẻ. Biện pháp 4: Dạy trẻ đếm xác định số lượng trong phạm vi 10, thêm, bớt, xác định các mối quan hệ số lượng, nhận biết các số từ 1 đến 10. Ở mẫu giáo nhỡ trẻ được học đếm xác định số lượng trong phạm vi 5, còn lên mẫu giáo lớn trẻ tiếp tục học đếm xác định số lượng trong phạm vi 10, nhận biết các số từ 1 đến 10 được bắt đầu bằng việc dạy trẻ lập số mới trên cơ sở số đã biết. Trên cơ sở đó trẻ bắt đầu thực hành so sánh hai nhóm đối tượng có số lượng hơn kém nhau là một, sao cho số lượng của chúng được biểu thị bằng con số mà trẻ đã biết và con số kề sau số đó. Ví dụ: khi dạy trẻ số 6 ta cho trẻ so sánh 5 bông hoa và 6 con ong thì giữa số hoa và số ong trẻ sẽ thấy số hoa ít hơn số ong là một, và ngược lại số ong nhiều hơn số hoa là một, bằng cách đếm trẻ sẽ gọi số mới để diễn đạt số ong, khi cho trẻ so sánh các từ số với nhau (5 thêm 1 là 6 và 6 bớt 1 là 5) như vậy, trẻ sẽ lĩnh hội nguyên tắc thành lập số mới. Khi dạy đếm cho trẻ 5 – 6 tuổi, giáo viên không nhất thiết phải trình bày minh họa quá trình lập số mới cho trẻ, mà nên hướng dẫn trẻ thực hành lập số mới với các đồ dùng được phát. Trong quá trình hướng dẫn, giáo viên nên hạn chế sử dụng các hành động, thao tác mẫu, mà cần tăng cường dùng lời nói để hướng dẫn trẻ (cô và trẻ cùng thực hiện). Ví dụ: lớp mình xếp số ô tô ra hàng trên và xe máy ở hàng dưới sao cho dưới mỗi ô tô là một xe máy Khi trẻ thực hành lập số mới trên cơ sở so sánh số lượng hai nhóm vật hơn kém nhau một vật, trẻ cần tạo ra sự bằng nhau về số lượng giữa hai nhóm vật đó bằng cách thêm một vật vào nhóm có số lượng ít và gọi tên số lượng mới được tạo bằng số mới. Qua đó trẻ tiếp tục học so sánh, nhận biết mối quan hệ số lượng giữa các nhóm đối tượng trong phạm vi 10 bằng cách đếm , thêm, bớt, tạo sự bằng nhau về số lượng. Mặt khác, bằng các ví dụ cụ thể trẻ sẽ thấy được tính tương đối của các khái niệm “nhiều hơn”, “ít hơn” về số lượng giữa các nhóm đối tượng và các khái niệm “lớn hơn”, “nhỏ hơn” giữa các con số, từ đó ở trẻ hình thành biểu tượng về trình tự của các số trong dãy số tự nhiên. Qua so sánh, trẻ sẽ thấy rõ nhóm vật nào nhiều hơn hay ít hơn nhóm vật nào, từ đó trẻ sẽ so sánh các con số với nhau để thấy con số nào lớn hơn hay nhỏ hơn số nào. Ví dụ: cho trẻ xếp 8 cái bát và 7 cái thìa ra và hỏi trẻ số nào nhiều hơn, số nào ít hơn. Trong quá trình dạy đếm cho trẻ 5 – 6 tuổi, cần chú trọng phát triển kỹ năng đếm cho trẻ, thông qua các bài luyện tập. Trẻ có thể đếm từ trái sang phải, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới hay từ dưới lên trên. Trẻ mẫu giáo lớn không chỉ học đếm trong phạm 10 theo trật tự đếm xuôi, mà trẻ còn cần nắm được kỹ năng đếm ngược. Ví dụ: cô xếp 10 vật ra thành hàng ngang rồi cho trẻ đếm để xác đinh số lượng. Sau đó cô cất dần từng vật, sau mỗi lần cất cô yêu cầu trẻ nói cho cô số vật còn lại, cứ như vậy tới khi không còn vật nào. Việc tổ chức dạy biểu tượng số lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi không chỉ phát triển kỹ năng đếm bền vững cho trẻ, mà còn phát triển ở trẻ khả năng định hướng cùng một lúc nhiều dấu hiệu của đối tượng, phát triển độ nhậy của các giác quan, phát triển các quá trình tâm lý như: chú ý, ghi nhớ có chủ định, tư duy, ngôn ngữ... Biện pháp 5: Dạy trẻ cách chia một nhóm đối tượng thành hai phần theo các cách khác nhau. Trong những năm tháng học ở trường mầm non trẻ nhỏ thường xuyên phải thực hiện các bài tập khác nhau như tạo các nhóm đối tượng theo các dấu hiệu khác nhau, nhóm các nhóm đối tượng thành một nhóm lớn hay tách từ một nhóm lớn ra thành các nhóm nhỏ, so sánh, biến đổi, đếm số lượng của chúng... Những kiến thức, kỹ năng mà trẻ thu được thông qua việc thực hiện các bài luyện tập là cơ sở để trẻ nắm được cách chia một nhóm đối tượng thành hai phần theo các cách khác nhau. Ví dụ: chia một nhóm gồm 6 đối tượng thành hai phần theo các cách: 1 và 5; 2 và 4; 3 và 3. Ban đầu mỗi trẻ có thể thực hành chia theo cách mà mình thích, tiếp theo giáo viên tổ chức cho trẻ thực hành chia một nhóm đối tượng thành hai phần với số lượng của một phần theo yêu cầu của cô. Ví dụ: chia 8 cái kẹo thành hai phần, một phần là 3 cái thì phần còn lại sẽ là mấy? Hay yêu cầu trẻ chia hai phần sao cho số lượng đối tượng của hai phần đều bằng nhau. Khi trẻ đã nắm được các cách chia một nhóm đối tượng thành hai phần theo các cách khác nhau, giáo viên cần hướng dẫn trẻ khái quát lại những cách chia đó với các thẻ số bằng cách yêu cầu trẻ đặt các thẻ số tương ứng với số lượng đối tượng của mỗi phần chia. Ví dụ: với cách chia 8 đối tượng thành một nhóm có 3 đối tượng và một nhóm có 5 đối tượng thì trẻ sẽ sử dụng cặp thẻ số 3 và 5 để khái quát lại cách chia đó. c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả thì giáo viên cần nắm vững phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động, phải yêu thích môn toán, yêu nghề, mến trẻ, tự tìm tòi sáng tạo, học hỏi đồng nghiệp, tài liệu và truy cập internet để có những biện pháp hay. Ngoài ra còn phải biết tham mưu với nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động học. Giáo viên phải có kỹ năng giao tiếp tốt, biết vận dụng kiến thức chuyên môn của mình để giải thích cho phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc hình thành biểu tượng số lượng cho trẻ, từ đó có được sự ủng hộ của phụ huynh. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp. Các biện pháp nêu ra tuy khác nhau về mặt nội dung và phương pháp nhưng đều có mối quan hệ mật thiết, khăng khít, hỗ trợ cho nhau. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu * Kết quả khảo nghiệm: Các biện pháp tôi đưa ra đã phù hợp với điều kiện thực tế của lớp. Chất lượng giảng dạy nâng lên rõ rệt, học sinh đi học chuyên cần hơn, yêu thích học toán hơn. Bên cạnh việc khảo sát, qua việc áp dụng đề tài trong lớp. Bản thân tôi cũng tự tin và nhiều sáng tạo hơn khi dạy trẻ, biết kết hợp đan xen các hình thức cũng như lồng ghép trong phương pháp giảng dạy, biết tận dụng những cái mới lạ vào các hoạt động để các cháu hứng thú hơn. Phụ huynh dần hiểu ra được phương pháp học tập của chương trình mầm non tuy đơn giản như trò chơi nhưng mang lại nhiều kết quả tích cực. * Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Đây là một đề tài sát với thực tế của lớp lá 1 trường Mầm non Krông Ana giúp giáo viên có thêm một số kinh nghiệm và biện pháp để giảng dạy tốt Trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm * Đối với giáo viên: Qua quá trình nghiên cứu và thực
Tài liệu đính kèm: