Hoạt động phát triển ngôn ngữ có vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển toàn diên nhân cách trẻ. Nó có giá trị quyết định trong việc phát triển trí tuệ, đạo đức, thẫm mỹ, thể lực và các mối quan hệ xã hội của trẻ từ những năm đầu cho trẻ. Là giáo viên mầm non, trực tiếp đứng lớp giảng dạy các cháu. Hàng ngày tôi được gần gũi, tiếp xúc với các cháu, tôi luôn mong muốn mình làm được những gì tốt đẹp nhất giành cho các cháu. Nhưng trên thực tế, ở trường Mầm non, việc tổ chức các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngoài một số kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều yếu tố bất cập. Về không gian cho trẻ hoạt động: Diện tích phòng học chật hẹp, sĩ số cháu đông, do đó trong quá trình trẻ tham gia hoạt động không được thoải mái. Trong quá trình tổ chức các hoạt động, mỗi cô giáo có một cách riêng để truyền thụ kiến thức cho trẻ. Về đồ dùng đồ chơi: Đa số là đồ chơi cô giáo tự làm, nên mới chỉ ở mức đạt yêu cầu mà thôi. Đối với trẻ: Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý của mỗi trẻ khác nhau, cháu thì nhanh nhẹn, hoạt bát, thông minh; cháu thì trầm lặng, ít nói nên quá trình cung cấp từ mới, củng cố những từ trẻ đã biết hoặc cô truyền thụ một số kiến thức khác cho trẻ cũng khác nhau. Bên cạnh đó có một số trẻ ngôn ngữ phát triển còn chậm, một số từ, câu phát âm chưa rõ ràng và thiếu chính xác, trẻ có thói quen phát âm theo tiếng địa phương. Chính vì những lẽ đó mà tôi muốn dựa vào đây để nghiên cứu, tìm ra giải pháp, biện pháp phù hợp áp dụng vào công tác giảng dạy để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đạt kết quả tốt ở trường Mầm non.
- Thị xã Buôn Hồ. 5. Phương pháp nghiên cứu: Xem tài liệu. Khảo sát thực trạng. Xử lý kết quả. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Để tiến hành một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ở trường Mầm non đạt kết quả cao. Chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa của hoạt động này đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đối với trẻ em, sự phát triển ngôn ngữ được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn tiền ngôn ngữ ( Dưới 12 tháng) và giai đoạn ngôn ngữ ( Từ 12 tháng tuổi trở lên). Ngôn ngữ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và trẻ Mầm Non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng không thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được những quy định chung của xã hội mà mọi người đều phải thực hiện theo những quy định chung đó. Ngôn ngữ còn là phương tiện giúp trẻ tìm hiểu khám phá, nhận thức về môi trường xung quanh, thông qua cử chỉ lời nói của người lớn trẻ sẽ được làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh. Nhờ có ngôn ngữ mà trẻ sẽ nhận biết ngày càng nhiều màu sắc, hình ảnh của các sự vật , hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành ngôn ngữ cho trẻ Ngôn ngữ có vai trò lớn trong việc phát triển trí tuệ cho trẻ. Bên cạnh đó, để phát triển thể lực cho trẻ, cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong các hoạt động góp phần phát triển thể lực cho trẻ như tổ chức cho trẻ chơi trò chơi vận động, hoạt động thể dục, trong các giờ ăn, ngủ cô giáo cần dùng đến ngôn ngữ để hướng dẫn, giáo dục trẻ thực hiện tốt. Hoạt động nói năng liên quan đến cơ quan hô hấp, bộ máy phát âm. Quá trình phát âm là rèn luyện bộ máy cấu âm, rèn luyện phổi, khí quản và một số bộ phận khác trong cơ thể. Nhờ có ngôn ngữ, giáo viên sử dụng để giáo dục trẻ ý thức giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng và ý thức bảo vệ môi trường. Cũng nhờ có ngôn ngữ, giáo viên sử dụng để tuyên dương, khen ngợi, động viên khi trẻ làm được nhiều việc tốt, giáo viên sử dụng để sửa sai, nhắc nhở, động viên khi trẻ làm chưa tốt. Hơn thế nữa, nhờ có ngôn ngữ trẻ mới có thể bày tỏ những mong muốn, ý thích của mình với người lớn, để từ đó người lớn hiểu và cùng giúp trẻ thỏa mãn những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hàng ngày của trẻ. Như vậy để trẻ tồn tại và phát triển một cách toàn diện chúng ta cần tạo điều kiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất trong trường Mầm non. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng quá trình thực hiện hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ như sau: Tổng số trẻ khảo sát là: 20 trẻ trong đó nữ 9, nam 11 BẢNG KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NỘI DUNG Số trẻ đạt TỶ LỆ ĐẠT Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 8 40 % Vốn từ 5 25 % Khả năng nói đúng ngữ pháp 8 40 % Khả năng giao tiếp 7 35% Qua kết quả khảo sát trên, tôi thấy kết quả các cháu bị lỗi về ngôn ngữ chiếm tỷ lệ tương đối cao. Hoạt động phát triển ngôn ngữ có vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển toàn diên nhân cách trẻ. Nó có giá trị quyết định trong việc phát triển trí tuệ, đạo đức, thẫm mỹ, thể lực và các mối quan hệ xã hội của trẻ từ những năm đầu cho trẻ. Là giáo viên mầm non, trực tiếp đứng lớp giảng dạy các cháu. Hàng ngày tôi được gần gũi, tiếp xúc với các cháu, tôi luôn mong muốn mình làm được những gì tốt đẹp nhất giành cho các cháu. Nhưng trên thực tế, ở trường Mầm non, việc tổ chức các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngoài một số kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều vấn đề, nhiều yếu tố bất cập. Về không gian cho trẻ hoạt động: Diện tích phòng học chật hẹp, sĩ số cháu đông, do đó trong quá trình trẻ tham gia hoạt động không được thoải mái. Trong quá trình tổ chức các hoạt động, mỗi cô giáo có một cách riêng để truyền thụ kiến thức cho trẻ. Về đồ dùng đồ chơi: Đa số là đồ chơi cô giáo tự làm, nên mới chỉ ở mức đạt yêu cầu mà thôi. Đối với trẻ: Do đặc điểm phát triển tâm sinh lý của mỗi trẻ khác nhau, cháu thì nhanh nhẹn, hoạt bát, thông minh; cháu thì trầm lặng, ít nói nên quá trình cung cấp từ mới, củng cố những từ trẻ đã biết hoặc cô truyền thụ một số kiến thức khác cho trẻ cũng khác nhau. Bên cạnh đó có một số trẻ ngôn ngữ phát triển còn chậm, một số từ, câu phát âm chưa rõ ràng và thiếu chính xác, trẻ có thói quen phát âm theo tiếng địa phương. Chính vì những lẽ đó mà tôi muốn dựa vào đây để nghiên cứu, tìm ra giải pháp, biện pháp phù hợp áp dụng vào công tác giảng dạy để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đạt kết quả tốt ở trường Mầm non. 3. Nội dung và hình thức giải pháp Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Dựa trên những thực trạng mà tôi đã khảo sát được, muốn cho các cháu có được vốn kiến thức ngôn ngữ phòng phú và đa dạng thì tôi cần phải xây dựng kế hoạch hoạt động tháng, tuần, ngày theo chủ điểm trong đó có hoạt động chủ đích, hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động ở mọi lúc mọi nơi, hoạt động lao động tự phục vụ và một số trò chơi khác.Tôi phải nghiên cứu, suy nghĩ, đưa ra một số biện pháp để tổ chức cho trẻ tham gia một cách có hiệu quả các hoạt động nhằm giúp cho tất cả các trẻ đều được phát triển ngôn ngữ một cách đồng đều để chuẩn bị hành trang cho các cháu bước vào ngưỡng cửa trường phổ thông trong tương lai. Nội dung và cách thực hiện giải pháp: Trẻ mầm non là chủ thể của quá trình phát triển ngôn ngữ, ngôn ngữ của trẻ được phát triển thông qua quá trình giao tiếp của trẻ với những người xung quanh, với môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Để phát triển ngôn ngữ, trẻ phải được nghe lời nói, được bắt chước lời nói, được chủ động nói. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là phát triển ở trẻ cả 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Ở trường Mầm non, đối với lứa tuổi nhà trẻ, đặc biệt chú ý đến kỹ năng nghe - hiểu và nói, đồng thời cho trẻ làm quen với tranh ảnh. Đối với trẻ mẫu giáo, không dạy trẻ các kỹ năng đọc và viết thực sự mà dạy trẻ những kỹ năng cơ bản như: Biết giở sách, biết cách ngồi đúng tư thế, biết cách cầm bút để tô, vẽ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giúp trẻ lĩnh hội cả 3 thành phần của ngôn ngữ: Phát âm, vốn từ, ngữ pháp. Do đó nhiệm vụ quan trọng nhất của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ là dạy trẻ nghe - hiểu và giao tiếp bằng ngôn ngữ: Âm - từ - câu - lời nói. Nội dung: Gồm có 4 biện pháp và cách thực hiện của 4 biện pháp như sau: Biện pháp 1: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi. 1- Giờ đón trẻ: Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường , tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? - Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. - Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. 2- Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc: Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. VD1: Trò chơi trong góc “Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. + Bác đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) + Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! ( Vâng ạ) + Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! + Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội) Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người VD2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Giao thông” bằng đồ dùng tự tạo đó chính là những chiếc ô tô đã đục sẵn lỗ và những chiếc ô tô, máy bay chưa có bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ: + Linh ơi, con đang xâu gì vậy? ( Con đang xâu ô tô ạ) + Con xâu ô tô bằng gì đấy? (Con xâu bằng dây xâu ạ) + Dũng ơi, ô tô này đã đi được chưa hả con? ( Chưa đi được ạ) + Muốn ô tô đi được phải làm thế nào? ( Lắp thêm bánh xe ạ) + Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! ( Vâng ạ) VD3: Ở góc “ Bé khéo tay” cũng ở chủ điểm “Giao thông” bằng miếng xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ô tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một cách nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm . Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: + Con đang làm gì vậy? (Con in hình ô tô ạ) + Ô tô của con có màu gì? (Màu đỏ ạ) + Đây là phương tiện gì con có biết không? ( Xe đạp ạ ) + Xe đạp này có màu gì ? ( Màu vàng ạ) + Ô tô và xe đạp đi ở đâu hả con ? (Trên đường ạ ) - Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 3. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh.Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ: + Cây hoa này có màu gì? ( Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? ( Có ạ) + Cây phượng vĩ này rất cao và có lá màu gì? ( Màu xanh ạ) + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? ( Có ạ) + Con gì vậy? ( Con chim) + Con chim kêu như thế nào? ( Chích chích.) * Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! ( Vâng ạ) - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại. Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác. 1.Thông qua giờ thơ, truyện: Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo : + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ” . Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “ Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”. Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy. Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? ( Đi kiếm ăn ạ) + Vịt kiếm ăn ở đâu? ( Dưới ao ) + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? ( Trên bãi cỏ) + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? ( Bới đất tìm giun ) + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo) + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa). + Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? ( Thương yêu nhau) + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? ( Giúp đỡ bạn ạ). - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn. VD2: Qua bài thơ “ Cây bắp cải ” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “ sắp vòng quanh”. - Tôi giải thích cho trẻ : Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài . Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời: + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ) + Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào? ( Xanh man mát ) + Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? ( Sắp vòng quanh ạ) + Búp cải non thì nằm ở đâu? ( Nằm ở giữa ạ) - Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. - Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ. VD3: Trong câu truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. + Trẻ hay nói ô tô - ô chô. + Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan + Bác Gấu _ Bác ấu + Con Cáo _ Con áo - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời. - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. - Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức . Biện pháp 3: Một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ Đối với trẻ nhà trẻ , được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng” số vốn từ ”đó một cách thành thạo. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. * Trò chơi 1: “ Cái gì? Dùng để làm gì? - Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển : * Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống ( Bát, thìa, cốc, ca) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau. * Tiến hành: - Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì? - Cô nói: + Cái bát dùng để làm gì? ( Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước + Cái mũ để làm gì? ( Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? ( Cái áo để mặc) - Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng. * Trò chơi 2: “ Con muỗi ” * Cách chơi: - Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô. - Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác: + Có con muỗi vo ve, vo ve (Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại theo nhịp đọc) + Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện, chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang). + úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. ( Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay) - Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn . *Trò chơi 3:” Trò chuyện về các PTGT quen thuộc ”. - Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen thuộc như : ô tô, xe đạp, xe máy, tàu hoả. * Chuẩn bị: + Mô hình các PTGT: ô tô, xe máy, xe đạp. + Tranh, ảnh các loại PTGT. + Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán * Tiến hành: Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi. Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiềutôi có thể đàm thoại với trẻ về các loại PTGT mà trẻ biết như : + Hôm nay, ai đưa con đến trường? + Mẹ con đưa đến trường bằng PT gì? + Cô nào đón con vào lớp? + Hôm qua chủ nhật, bố mẹ con có đưa con đi đâu không? + Con đi với ai? + Con đi bằng PT gì? + Khi đi đường con nhìn thấy gì ? + Bạn nào đã được đi ô tô rồi + Ô tô kêu như thế nào ? + Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo ATGT? - Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại PTGT khác mà trẻ biết. - Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình PTGT và cho trẻ nghe âm thanh của PTGT yêu cầu trẻ đoán đó là PTGT nào. * Trò chơi 4: “Trò chuyện cùng cô ” - Qua trò chơi này trẻ được phát âm nhiều, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ mới qua giao tiếp với cô. * Tiến hành: Trong ngày tuỳ từng thời điểm mà cô dành thời gian vỗ về ôm ấp trẻ, nói chuyện với trẻ: * Khi cho ăn : + Bạn Hùng ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy? (Con ăn cơm với thịt ạ) + Bạn Hà ăn được mấy bát cơm rồi? * Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần nựng trẻ: + Cô Hoa mặc áo đẹp cho Minh nhé? ( Vâng ạ) + Áo đẹp này ai mua cho con? ( Mẹ con ạ) + Con có biết mẹ mua ở đâu
Tài liệu đính kèm: