Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học - Trường Mầm Non Krông Ana

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học - Trường Mầm Non Krông Ana

Thực trạng

a.Thuận lợi, khó khăn

* Thuận lợi

 - Ở các trường mầm non, trẻ năng động thích tham gia các hoạt động tích cực. Có các bậc phụ huynh quan tâm đến con mình. Trẻ cùng một độ tuổi, thuận lợi cho việc áp dụng đề tài.

- Từ khi ra trường đều được phân dạy lớp 5 tuổi. Với lòng nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, có khả năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng cho trẻ hiểu được nội dung bài, tạo được môi trường hoạt động ở lớp tương đối phong phú.

- Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu, trường nằm trên địa bàn trung tâm thị trấn nên được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.

- Ban giám hiệu đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng, đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1918Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học - Trường Mầm Non Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 điệu, cường điệu, tình cảm của âm thanh ngôn ngữ khi đọc tác phẩm cho trẻ nghe.
Về trẻ kết quả đọc diễn cảm đạt 80- 85%
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi được nhuần nhuyễn. Đồng thời giúp giáo viên dạy đọc diễn cảm một cách mềm dẻo, linh hoạt.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết những mâu thuẫn sau:
Việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ 5-6 tuổi ở các trường mầm non chưa đạt hiệu quả cao bởi nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là:
Thứ nhất: Đó là việc giáo viên chưa thể hiện được ngữ điệu, cường điệu, tình cảm của âm thanh ngôn ngữ khi đọc tác phẩm cho trẻ nghe.
Thứ hai: Là do giáo viên sử dụng chưa hợp lý các phương pháp dạy học và những đồ dùng trực quan khi giảng dạy.
Thứ ba: Là chưa thật sự chú ý rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ qua các môn học và dưới các hình thức khác nhau.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp lá 5, trường Mầm non Krông Ana.
I.4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu
- Hoạt động có chủ đích và hoạt động ở mọi lúc mọi nơi của học sinh Trường Mầm Non Krông Ana.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
 Quan sát, đàm thoại. 
 Điều tra thực tế. 
 Nghiên cứu tài liệu.
 Kiểm tra đánh giá các hoạt động của trẻ. 
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lý luận 
Ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi. Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi còn nhiều hạn chế về khả năng diễn đạt và tư duy chưa phát triển cao vì thế việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ có ý nghĩa rất to lớn trong phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Đọc diễn cảm giúp trẻ phát âm rõ ràng ( đảm bảo sự nghiêm ngặt chính âm) Phân biệt từ, cụm từ, câu, đoạn với cấu trúc chính xác ( chính tả và ngữ pháp). Tái tạo đầy đủ nội dung ý nghĩa tác phẩm trên cơ sở nắm vững sự thống nhất giữa cái biểu đạt ( hình thức nghệ thuật ) và cái được biểu đạt ( tư tưởng nghệ thuật ) làm nên chỉnh thể toàn diện của tác phẩm. Đọc diễn cảm là giọng đọc hay đọc đúng, biết phối hợp giữa chất giọng tự nhiên với các nội dung tác phẩm. Biết làm chủ giọng đọc và kỹ thuật đọc phù hợp với giọng điệu cảm xúc của nhà văn và nghĩa của văn bản. Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Tốc độ hình thành các phản xạ có điều kiện ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chưa tăng cao. Sự vận dụng ngôn ngữ diễn cảm vào cuộc sống sinh hoạt hàng ngày còn ít. Tư duy của trẻ 5– 6 tuổi chưa cao điều đó giúp chúng ta hiểu rằng việc dạy kỹ năng đọc diễn cảm còn nhiều khó khăn. Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm xúc thẩm mỹ và đời sống tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động riêng tư của người đọc với tác phẩm. Những tiêu chí đánh giá năng lực đọc diễn cảm của trẻ. Có khả năng đọc các thể loại văn học khác nhau. Biết phát huy ưu thế chất giọng với từng thể loại văn học phù hợp và ưa thích. Đọc rõ ràng mạch lạc. Đọc thể hiện được âm điệu chủ đạo của bài văn và đó cũng là tình cảm thẩm mỹ của tác phẩm. Thể hiện sự hiểu biết mối quan hệ giữa phương diện hình thức thực nghiệm ( phương tiện biểu đạt) và nội dung ý nghĩa tư tưởng văn học ( cái biểu đạt) của bài văn. Biết ngắt giọng, nhấn trọng âm lôgic, đọc đúng ngữ điệu câu hỏi, khẳng định, phủ định nhấn giọng những sắc thái biểu cảm cần thiết như: vui sướng, buồn rầu, xúc động tự hào, truyền đạt được ý tưởng tác giả. Biết nhấn mạnh tô đậm những yếu tố hình thức, nghệ thuật trung tâm và độc đáo của bài văn trong mối quan hệ làm sáng tỏ nội dung chủ đề và tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm .
Đọc thể hiện được cảm xúc, sự hiểu biết riêng về tác phẩm và có những biểu hiện sáng tạo trong biện pháp đọc. Biết khai thác những ưu điểm và hạn chế nhược điểm của cá nhân trong khi đọc. Có giọng đọc chân thực, bảo tồn được mối quan hệ truyền cảm giao lưu với người nghe.
II.2.Thực trạng
a.Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
 - Ở các trường mầm non, trẻ năng động thích tham gia các hoạt động tích cực. Có các bậc phụ huynh quan tâm đến con mình. Trẻ cùng một độ tuổi, thuận lợi cho việc áp dụng đề tài. 
- Từ khi ra trường đều được phân dạy lớp 5 tuổi. Với lòng nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, có khả năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng cho trẻ hiểu được nội dung bài, tạo được môi trường hoạt động ở lớp tương đối phong phú.
- Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu, trường nằm trên địa bàn trung tâm thị trấn nên được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.
- Ban giám hiệu đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng, đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm.
* Khó khăn
 Lớp lá 5 có 1/3 học sinh chưa thực sự được ba mẹ quan tâm, phòng học hơi chật hẹp do tiếp nhận phòng của tiểu học, có một số trang thiết bị còn hạn chế. b.Thành công, hạn chế 
*Thành công
 Trẻ trở nên vui vẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động, đọc kể diễn cảm một cách lưu loát. Và trẻ có sự tiến bộ trong cách ứng xử, kỹ năng sống tốt hơn.
*Hạn chế
 Một số cháu nói tiếng địa phương, nói ngọng, nói lắp.
Mặt mạnh, mặt yếu
*Mặt mạnh
Cô giáo dạy trở nên mềm dẻo, linh hoạt.
Các cháu đọc diễn cảm các tác phẩm một cách nhuần nhuyễn
*Mặt yếu
 Một số cháu kỹ năng đọc diễn cảm chưa được tốt.
 d. Các nguyên nhân, yếu tố tác động.
Giáo viên chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động chơi, các buổi sinh hoạt, nếu có thì chủ yếu là trong tiết học.
Chưa thực sự đầu tư vào công tác dạy trẻ đọc, kể diển cảm.
Hầu hết khi thể hiện các tác phẩm văn học của trẻ cô ít chú ý đến độ miêu ta diển cảm, ít sửa sai cho những trẻ phát âm chưa đúng.
- Với những nguyên nhân như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học đặc biệt là thể loại chuyện kể.
e. Đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.
* Ưu điểm: Nhìn chung đề tài tôi nghiên cứu có những mặt thuận lợi, mang đến những thành công nhất định. 
- Giảng dạy nhiều năm và thường xuyên quan tâm đến trẻ nên bản thân cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi.
- Được sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh của lớp lá 5, nên tôi vận dụng các biện pháp mới cũng thuận lợi hơn.
* Tồn tại: Bên cạnh những ưu điểm trên trong thời gian nghiên cứu đề tài tôi cũng gặp không ít vấn đề hạn chế và có mặt yếu kém như:
- Một số cháu chưa qua lớp 3-4 tuổi, 4-5 tuổi nên kỹ năng đọc diễn cảm chưa được tốt.
- Số trẻ đông, một số trẻ thể lực yếu nên tiếp thu chậm hơn so với các bạn.
- Gia đình học sinh còn khó khăn nên phụ huynh chưa cho trẻ tiếp xúc nhiều với các loại hình nghệ thuật.
- Từ khảo sát thực tế tôi thu được kết quả sau:
TT
Các nội dung
Số trẻ đạt
Tỉ lệ
1
Thể hiện được giọng điệu của nhân vật
12
31%
2
Cảm nhận được tác phẩm
16
41%
3
Biết kể chuyện sáng tạo
07
18%
4
Thuộc và đọc, kể diễn cảm
15
38%
II. 3.Giải pháp, biện pháp
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Nhằm rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ 5 -6 tuổi ở trường mầm non đạt hiệu quả cao trong dạy và học;
	Các cháu hứng thú tham gia vào các hoạt động, đọc kể diễn cảm một cách lưu loát, tự nhiên;
Cô giáo khi truyền thụ kiến thức cho trẻ được mềm dẻo linh hoạt hơn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Biện pháp 1: Giáo viên phải nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc đọc diễn cảm.
Nhận thức đúng về việc đọc diễn cảm là phải có sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức văn học, nghiên cứu kỹ từng tác phẩm bằng mọi hình thức. Ngoài sự hiểu biết có sẵn giáo viên phải luôn chủ động tìm tòi qua sách báo, qua thông tin trên mạng, qua học hỏi bạn bè đồng nghiệp và những người xung quanh; để hiểu được rằng muốn truyền thụ các tác phẩm văn học đến trẻ một cách tốt nhất cần phải sử dụng ngôn ngữ đọc một cách tốt nhất cần phải sử dụng ngôn ngữ đọc một cách có nghệ thuật. Việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ có tác dụng phát triển ngôn ngữ, hình thành những tình cảm đạo đức cho trẻ đối với sự vật, hiện tượng, con người ở môi trường xung quanh.
Ví dụ 1: Khi dạy trẻ đọc bài thơ “Vì con” – Vân Long, trẻ cảm nhận được những tình cảm của người mẹ dành cho người con theo thời gian với những việc làm cụ thể đồng thời trẻ có tình cảm yêu thương, kính trọng mẹ qua ngôn ngữ đọc diễn cảm của cô.
Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ mầm non là cơ sở ban đầu cho việc cảm thụ các tác phẩm văn học của trẻ ở các cấp học tiếp theo. Đặc biệt là ngưỡng cửa khi trẻ bước vào lớp 1. Vì vậy việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ là hết sức quan trọng và bức thiết.
Ví dụ 2: Đến với bài thơ “Làm nghề như bố” với những vần thơ hồn nhiên vô tư ấy lại mở ra cho trẻ cánh của của bao ước mơ diệu kỳ. Để rồi những ước mơ ấy lớn dần theo năm tháng. Từ đó trẻ nhận thức được rằng làm thế nào để ước mơ ấy trở thành hiện thực.
“Làm nghề như bố
Bố Tuấn lái tàu
Bố Hùng đốt lửa,
Từng nghe bố kể
Qua lắm vùng quê
Hùng,Tuấn rất mê
Làm nghề như bố.
Bao nhiêu ghế nhỏ 
Buộc níu vào nhau 
Cu Tuấn làm tàu
Hùng làm người lái 
Thổi kèn lá chối 
Cho tàu rời ga
Chạy khắp lòng nhà 
Tàu kêu: Thích! Thích!”
Ví dụ 3: Hay khi đọc bài thơ “Nàng tiên ốc” - Phan Thị Thanh Nhàn. Nếu trẻ biết đọc diễn cảm thì trẻ cảm nhận được những vần thơ nhẹ nhàng như ru với những tình tiết đầy bất ngờ. Qua trẻ cảm nhận được sự tình thương bao la, lòng thương người vô bờ bến của bà già nghèo. Đồng thời trẻ cũng cảm nhận được sâu sắc hơn về thế giới loài vật. Điều đó càng kích thích nhiều hơn trí tò mò của trẻ, mở ra cho trẻ một thế giới thần tiên thật đáng yêu. Và điều đó cho thấy rằng nếu như không biết đọc diễn cảm thì những vần thơ đó cũng sẽ trở nên đơn điệu.
“Nàng tiên ốc 
Xưa có một bà già nghèo 
Chuyên mò cua bắt ốc. 
Một hôm bà bắt được
Một con ốc xinh xinh 
Vỏ nó biêng biếc xanh 
Không giống như ốc khác
Bà thương không muốn bán
Bèn bỏ vào trong chum
Rồi bà lại đi làm 
Đến khi về thấy lạ
Sân nhà sao sạch quá 
Đàn lợn đã được ăn
Cơm nước nấu tinh tươm
Vườn rau tươi sạch cỏ 
Bà già thấy chuyện lạ
Bèn có ý rình xem
Thì thấy một nàng tiên 
Bước ra tù chum nước
Bà già liền bí mật 
Đập vỡ vỏ ốc xanh 
Rồi ôm lấy nàng tiên 
Không cho chui vào nữa 
Hai mẹ con từ đó 
Rất là yêu thương nhau.” 
Biện pháp 2: Giáo viên phải tự rèn luyện cho mình các thủ thuật ngữ âm khi đọc tác phẩm văn học :
Để truyền thụ một tác phẩm văn học đến trẻ một cách trọn vẹn, dễ dàng thì người giáo viên mầm non cần phải rèn luyện nắm được các thủ thuật đọc, kể, có được kỹ năng, thậm chí kỹ xảo đọc diễn cảm. Việc rèn luyện này đòi hỏi người giáo viên phải đọc kĩ tác phẩm văn học và phân tích từng chi tiết nhỏ cũng như từ ngữ khó của tác phẩm để từ đó xác định và sử dụng đúng giọng điệu cơ bản, ngữ điệu, ngắt giọng theo đúng nhịp điệu, cường độ của âm thanh ngôn ngữ của mình.
Giọng điệu cơ bản là tính chất chung của giọng đọc, giọng kể khi trình bày một tác phẩm văn học nghệ thuật, giọng điệu cơ bản phụ thuộc vào thể loại, nội dung tư tưởng phong cách ngôn ngữ của tác phẩm .
Điều quan trọng không thể thiếu đó là: nếu như nghề ca sĩ muốn hát hay thì phải thường xuyên luyện giọng hát, thì người giáo viên phải luôn luyện giọng nói, giọng đọc, giọng kể của mình làm sao chỉ qua những vần thơ, câu chuyện thôi nhưng trẻ đều có thể cảm nhận được tình cảm, sự yêu thương, nỗi niềm trong đó và tất cả giống như thật .
Ví dụ 1: Với bài thơ “ Tết đang vào nhà” cần đọc với giọng điệu rộn ràng vui vẻ để khắc họa cảnh vật và hoạt động của con người rất sáng sủa, sinh động thực sự gợi tâm trạng vui sướng, yêu đời với mùa xuân đang tới
 “Hoa Đào trước ngõ 
Cười vui sáng hồng
Hoa Ban trong vườn 
Rung rinh cánh trắng
Sân nhà đầy nắng
Mẹ phơi áo hoa
Em dán tranh gà
 Ông treo câu đối 
 Tết đang vào nhà
 Sắp thêm một tuổi
 Đất trời nở hoa”
Với bài thơ “Gà mẹ đếm con” giọng điệu khi đọc phải hồn nhiên, trong trẻo để thể hiện bức tranh thiên nhiên đẹp, tươi sáng mà giản dị, có pha chút tinh nghịch như cái nhìn của trẻ thơ.
“Cục cục gà mẹ đếm
Một, hai, bavà nhiều
Đàn gà con vừa nở
Chẳng biết là bao nhiêu
Có hạt nắng bé xíu
Vừa rơi trên nền nhà
Thế là cả đản gà
ùa lên tranh nhau nhặt
Gà mẹ sợ con lạc
Cục cục đuổi theo sau
Phải bắt đầu đếm lại
Một, hai, ba và nhiều”
Việc lựa chọn và thể hiện giọng điệu cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ, bởi vì một trong những yêu cầu của việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ cũng là việc giúp trẻ cảm nhận và thể hiện các giọng điệu khác nhau khi trình bày: trang trọng hay vui vẻ, êm dịu hay hóm hỉnh
 Trên nền của giọng điệu cơ bản, người đọc còn phải sử dụng các sắc thái khác nhau tùy theo diễn biến nội dung để trình bày trọn vẹn tác phẩm. Một trong những sắc thái của giọng đọc được thể hiện ở yếu tố ngữ điệu. Ngữ điệu là những thay đổi chủ yếu về độ cao của giọng khi đọc, nó có thể miêu tả lại được tâm trạng hành động, cá tính của các nhân vật, bộc lộ thái độ của mình trước các nhân vật đó.
Ví dụ 2: Với câu chuyện “ Quả táo của ai ” giọng điệu cơ bản là trong sáng, sôi nổi thẻ hiện nội dung là thỏ, quạ, nhím, cùng muốn nhận một quả táo và cuối cùng quả táo đó về ai. Trong câu chuyện này, ngữ điệu khi thể hiện ngôn ngữ của thỏ, nhím, quạ, cần phải cao, thậm chí có phần gay gắt thể hiện được ý thức tranh chấp của các con vật này. Như giọng điệu của nhím phải có tính chất khẳng định: “Quả táo chín rụng, tôi bắt được mà”.
Giọng của thỏ đòi hỏi khẳng định hơn “Tôi tìm thấy quả táo chứ! Quả táo này của tôi”
Còn giọng của quạ đen quyết liệt không kém “quả táo này tôi hái đấy”.
Đối lập với ngữ điệu cao, có tính gay gắt đó là ngữ điệu trầm, ôn hòa của gấu, thể hiện một tính cách chậm rãi, sáng suốt: “Các cháu đừng tranh cãi nữa ! Cả ba cùng nói đúng, song không nên tranh giành nhau như vậy, hãy bổ quả táo ra làm ba phần, mỗi cháu một phần”.
Ngoài yếu tố ngữ điệu ra, sắc thái của giọng đọc còn thể hiện ở yếu tố nhịp điệu, cường độ, nhịp điệu chính là tốc độ của giọng đọc, cường độ giọng đọc là độ vang, độ mạnh đối với lứa tuổi trẻ mầm non cần đọc những tác phẩm với nhịp điệu, cường độ vừa phải, phù hợp với ngữ điệu giọng điệu cơ bản của tác phẩm.
Ví dụ 3: Khi kể chuyện cổ tích “Cóc kiện trời” cần kể với giọng điệu sôi nổi, rõ ràng, có pha chút cảm phục. Đoạn đầu sẽ được kể với giọng điệu chậm rãi, với mục đích giới thiệu bối cảnh câu chuyện và các nhân vật
“ Thủa xa xưa, Ngọc hoàng cai quản tất cả các việc trên trời, dưới đất. Ngọc Hoàng ra lệnh cho thần mưa làm mưa cho tất cả các con vật và cây cỏ có nước uống. Nhưng đã ba năm nay không có một giọt mưa nào. Khắp nơi đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết rụi, các con thú cũng chết dần chết mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than ai oán, vậy mà trời có thấu. Một hôm các con vật họp bàn nhau lại chúng quyết định cử Cóc lên gặp Ngọc Hoàng. Cùng đi với Cóc có Cáo, Gấu và Cọp”
Đến đoạn miêu tả cuộc chiến giữa các nhân vật và tay chân của Ngọc Hoàng lại cần một nhịp điệu nhanh hơn cường độ mạnh hơn thể hiện tính chất căng thẳng cuộc chiến đấu:
“ Bầy gà vừa ló khỏi cửa, Cóc ra lệnh cho Cáo xông ra vồ gà. Biết gà bị vồ mất Ngọc Hoàng liền sai chó ra giữ Cáo. Chó chạy ra chỉ kịp sủa lên mấy tiếng đã bị Gấu ra chộp lấy tha đi. Ngọc Hoàng lại sai một toán lính ra giữ Gấu. Lần này Cọp xông ra quật chết từng lính không sót người nào”
Liên quan đến cường điệu và cường độ phải kể đến ngắt giọng. Quãng ngắt giọng ngắn thường ở trong nhịp điệu nhanh, cường độ mạnh, thể hiện tính chất náo nhiệt hoặc căng thẳng. Quãng ngắt dài thường trong nhịp điệu chậm, cường độ nhẹ, thể hiện tính chất buồn bi thương.
Như vậy là các thủ thuật về ngữ âm có vai trò rất quan trọng đối với việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ tác phẩm văn học có cuốc hút được trẻ và trẻ có cảm thụ đầy đủ những giá trị nghệ thuật hay không là phụ thuộc vào cách đọc của cô.
Do đó, giáo viên cần phải trang bị cho mình các thủ thuật đọc diễn cảm tác phẩm văn học
Biện pháp 3: Sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ khi đọc tác phẩm văn học như:
Để thành công tác phẩm không chỉ cần có giọng đọc diễn cảm ngọt ngào mà bỏ qua yếu tố phi ngôn ngữ “Tư thế, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ”Vì thế khi truyền đạt một tác phẩm đến với trẻ người giáo viên cần chú ý đến điều này.
Người giáo viên cũng giống như một diễn viên điện ảnh biểu diễn trên sân khấu và học trò chính là khán giả của trường quay. Đúng vậy “Ánh mắt là cửa sổ tâm hồn” qua ánh mắt ta có thể thấy được sự tự nhiên hay sự bất ngờ, thấy được vai ác vai thiện, ngột ngào hây chua chát; tư thế cho ta biết được vai lịch lãm hay thô kệchNhững cử chỉ đơn giản, chân thực có nội dung sâu sắc sẽ tăng thêm sức diễn cảm cho tác phẩm.
Ví dụ 4: Khi kể câu chuyện “ Ba cô gái” giọng đọc phải thay đổi liên tục theo tính cách của từng nhân vật: giọng bà mẹ trầm yếu ớt, giọng Sóc Đỏ trong trẻo hồn nhiên, giọng cô chị cả cô hai thì chua chát, đanh đá, giọng cô út địu dàng ấm áp. Cùng với những giọng kể đó đòi hỏi giáo viên phải thể hiện ánh mắt, cử chỉ điệu bộ khác nhau theo từng nhân vật. Nhờ đó trẻ cảm nhận sâu sắc hơn tính cách của mỗi con người và từ đó đọng lại trong trẻ tấm lòng hiếu thảo đói với cha mẹ. 
Ví dụ 5: Khi trình bày bài thơ “ Chim chích bông” Giáo viên phải đọc với giọng vui tươi, hồn nhiên. Ngữ điệu của 6 câu đầu là miêu tả hơi trầm. Đoạn sau là đối thoại, ngữ điệu cần cao hơn có thể kết hợp cử chỉ giơ tay lên vẫy khi đọc đoạn:
“ Em vẫy gọi !
Chích bông ơi!
Chim xuống nhé
Có thích không?”
Và có thể cúi xuống gật gậtđầu kết hợp nét mặt tươi vui khi đọc đoạn:
“ Chú chích bông
Liền xà xuống
Bắt sâu cùng
Và luôn mồn
Thích!
Thích!
Thích!
Việc kết hợp các tư thế nét mặt, cử chỉ với những thủ thuật ngữ âm sẽ có tư duy truyền thụ rất lớn tới người nghe. Nét mặt, ánh mắt tưởng tượng nếu là tác phẩm vui, diễn biến có hậu có tình tiết ngộ nghĩnh.
Nét mặt buồn nếu tác phẩm có tính chất bi thương. Sự giao cảm giữa người đọc, người kể với người nghe chính là thể hiện ở nết mặt, ánh mắt, cử chỉ. Tuy nhiên tư thế cử chỉ sẽ mất đi sức biểu cảm mạnh mẽ nếu lạm dụng nó. Vì thế cần sử dụng có mức độ để trẻ khỏi bị phân tán bởi những ấn tượng bên ngoài tác phẩm .
 Biện pháp 4: Tổ chức rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ dưới nhiều hình thức khác nhau.
Việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ có thể được diễn ra linh hoạt theo hai hình thức chính: hình thức trong giờ học và hình thức ngoài giờ học. Hình thức trong giờ học là cô rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ trong tiết học văn học mà trong đó cô dọc diễn cảm các bài thơ, câu chuyện đã được phân phối theo chương trình qui định.
Ví dụ 1: Khi dạy bài thơ “ Cây đào”- Nhược Thủy, cô cho trẻ đọc bài thơ nhiều lần và chú ý dạy trẻ cách ngắt nghỉ lên giọng, xuống giọng Cho hợp lý.
Còn về hình thức ngoài giờ thì ít được áp dụng vì vậy cần lưu ý quan tâm đến vấn đề này hiều hơn hình thức ngoài giờ học có ý nghĩa là trong lúc dạo chơi ngoài trời. Trong giờ chuẩn bị cơm trưa, sau lúc ngủ dậy kể cả giờ chơi tự do Cô đều có thể rèn cho trẻ kỹ năng đọc diễn cảm .
Ví dụ 2: Trong lúc dạo chơi ngoài trời, ở lớp mẫu giáo lớn cô có thể đọc cho trẻ đọc diễn cảm bài thơ “ Đi nắng” tác giả - Nhược Thủy.
Hay trong giờ chuẩn bị cơm trưa cô cho trẻ đọc diễn cảm bài thơ “Nhớ ơn”, giờ điểm danh đọc bài “Chào cô vào lớp”, hoặc trước khi đi ngủ cô cho trẻ đọc diễn cảm bài thơ:“ Giờ đi ngủ”
Hình thức ngoài giờ học là hình thứ cơn, giúp trẻ nhớ lại các bài thơ, câu chuyện đã được nghe và đặc biệt là rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ một cách tự nhiên nhất.
Vì vậy giáo viên cần chú ý tăng cường việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ dưới hình thức ngoài tiết học.
 Biện pháp 5: Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ qua các môn học khác
Việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho trẻ không chỉ diễn ra ở tiết học văn học mà còn được diễn ra trong các hoạt động học tập khác như:
Môn khám phá khoa học
Chơi vận động
Làm quen hoạt động tạo hình
Làm quen chữ cái
Vì thế các bài thơ trong các bộ môn đó không hề mất đi ý nghĩa văn học của nó mà còn giúp trẻ hiểu một cách dễ dàng nội dung của tác phẩm, đặc biệt là kỹ năng đọc diễn cảm của trẻ dần phát triển .
Ví dụ 3: Khi dạy môn: Khám phá khoa học về “ Một số vật nuôi trong gia đình” cô có thể kết hợp cho trẻ đọc diễn cảm bài thơ “ Đàn gà con” ( Ph

Tài liệu đính kèm:

  • doc51SKKN Bùi Thị Cẩm Dương MN Krông Ana .DOC.doc