PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung của Ngành giáo dục nói riêng về
việc nói không với tiêu cực và bệnh thành tích. Theo thống kê trên toàn quốc nói
chung và của các trường tiểu học nói riêng đã có biết bao học sinh yếu kém ngồi
nhầm lớp. Học sinh bỏ học do quá yếu không theo học được. Điều đó khiến tôi
rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, giúp học sinh
nắm được kiến thức cơ bản ngay từ những năm học các lớp ở cấp tiểu học. Đó là
nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này. Qua 10 năm được giảng dạy ở
các khối lớp khác nhau, năm nào vào đầu năm khi nhận chất lượng, lớp tôi cũng
có ít nhất 4 học sinh có học lực yếu kém đó là hiện tượng đã có từ nhiều năm
nay trong các nhà trường.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình,
tích cách và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có học sinh tiếp thu bài học
rất nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không
hiểu gì thông qua các hoạt động trên lớp (Nhất là hai môn Toán và Tiếng Việt)
hai môn này có vị trí rất quan trọng, là một giáo viên chủ nhiệm thì tôi phải làm
gì đối với những học sinh yếu, kém về tiếp thu này? Đó chính là vấn đề mà tôi
rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học.
với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến yếu – kém trong học tập ở học sinh tiểu học + Do hoàn cảnh gia đình. + Do mất căn bản. + Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập hay nói thông thường là học sinh lười học, không chăm chỉ chuyên cần. 1.3. Các biện pháp khắc phục - giúp đỡ học sinh yếu kém: a. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu học để làm gì? Vì sao phải học? b. Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như sau: + Động cơ mang tính xã hội: học để sau này góp phần xây dựng đất nước, xây dựng quê hương. + Động cơ mang tính cá nhân: học vì lợi ích riêng của mình, muốn hơn người, muốn sau này có vị trí cao trong xã hội + Động cơ bên trong: xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm được kiến thức, vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học. + Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt, muốn thầy cô và cha mẹ vui lòng Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học, học sinh học tập để có kết quả tốt. Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc học, có hứng thú trong học tập. Động cơ tạo nên động lực học đó chính là thành tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh. 1.3.1. Đối với học sinh yếu do hoàn gia đình Gia đình là môi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Trước tiên là ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy, giáo dục gia đình là một “điểm mạnh”, là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song mỗi gia đình có những điểm riêng của nó nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để đảm bảo được tính thống nhất, toàn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời phát huy ảnh hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiệu quả. Trước những nguyên nhân xuất phát từ gia đình giáo viên cần : 9/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu - Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể hướng phấn đấu của em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường Thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh. - Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn luyện. Qua đó,giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập, hạnh kiểm, các mặt tham gia hoạt động của con em mình thông qua sổ liên lạcGiáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp tác động phù hợp. Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở kịp thời khi các em có biểu hiện cần uốn nắn. - Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi cần thiết để bàn bạc biện pháp giáo dục các em. (không nên lạm dụng). - Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài học ngay lại lớp. 1.3.2. Đối với học sinh yếu do mất căn bản: Kiến thức luôn cần có sự xuyên suốt. Do mất căn bản học sinh khó mà có nền tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần: - Hệ thống kiến thức theo chương trình. - Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến thức để học sinh có thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học. - Phân hóa đối tượng học sinh. - Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,bằng nhiều hình thức tổ chức (thi đua cá nhân, thi đua tổ nhóm, đố vui, giải trí,). Kết hợp kiểm tra thường xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài, kích thích hoạt động trí tuệ cho các em. - Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng : •Xác nhận sự tiến bộ ở học sinh. • Kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh . • Thúc đẩy hành động theo chuẩn mực. • Giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như các bạn • Sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh. • Kèm chế sự bộc phát, tập thói quen chu đáo và cẩn thận. • Ngược lại nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo của học sinh. Ta thấy rằng, con người luôn luôn có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng định mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy giáo viên cần nắm vững đều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập. 10/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu 1.3.3. Học sinh yếu do lười ,học không chăm chỉ ,không chuyên cần hoặc chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập : Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do: không học bài, không làm bài, thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi, không tập chung, không lo xaĐể các em có hứng thú học tập, giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học,thay đổi bằng hình thức trò chơi, sử dụng phong phú đồ dùng học tập Giúp các em hiểu bài, tự bản thân mình giải quyết các bài tập cô giao. Ngoài ra, giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc nhở và giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải hiểu, một học sinh yếu – kém không đòi hỏi các em phải giỏi ngay được. Điều mà chúng ta mong muốn là sự tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian trước. Phương pháp này không dùng để giáo dục học sinh yếu – kém do hoàn cảnh gia đình được. Ngoài ra, giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói, cử chỉ, mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em. Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển biến tâm lí như thái độ, hành vi, tình cảmhọc sinh sẽ dần tiến bộ. 1.4. Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện: - Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. - Tôi luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, tôi phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như tôi nên thay chê bai bằng khen ngợi và tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: “Biết giúp đỡ người khác”, “Thái độ nhiệt tình và tích cực” 1.5. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: - Tôi cần phải giáo dục ý thức học tập của các em tạo cho các em sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho các em có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy tôi phải liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để các em thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri thức. 11/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu - Bên cạnh đó, tôi phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ các em về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục các em về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho các em thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, tôi phải phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập cho các em. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Vì thế bản thân tôi cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp một cách nhịp nhàng và chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường thì dù các em có học yếu và không có ý thức trong học tập cỡ nào thì dưới tác động của gia đình và nhà trường nhất định rằng việc học của các em sẽ dần tiến bộ. 1.6. Kèm cặp học sinh yếu: - Ngay từ đầu năm tôi cần phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 4A6 mà tôi chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 4 học sinh chưa hoàn thành và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em. - Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng, 2.Những biện pháp cụ thể: 2.1 Môn Tiếng Việt: Khi dạy môn Tiếng Việt tôi thấy phần đa học sinh yếu rơi vào phân môn Tập đọc, bắt đầu từ đó dẫn đến yếu về các phân môn khác như: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Từ những hạn chế của học sinh trên tôi khắc phục như sau: - Trước hết tôi cần phải nắm chắc quy trình một tiết dạy Tập đọc, kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học, giúp học sinh chủ động sáng tạo tiếp thu kiến thức mới. -Cần quán xuyến đến tất cả mọi học sinh trong lớp nhưng phải chú ý nhiều nhất là những em đọc còn yếu. Ví dụ như dạy bài: Dế Mèn bênh vực kẻ yếu . (Sách Tiếng Việt lớp 4 - Tập I) *Sau khi đọc nối tiếp câu đến phần luyện đọc đúng từ, ví dụ như các từ: chóp bu, nặc nô .. . Tôi gọi học sinh phát âm chuẩn đọc trước, yêu cầu những em yếu lắng nghe, sau đó tìm hiểu xem từ đó có nghĩa như thế nào? (học sinh có thể 12/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu tự đọc ở phần chú giải trong sách giáo khoa). Tương tự với các tiếng khác nếu học sinh cảm thấy không hiểu thì giáo viên có thể giảng thêm. Một số em đã phát âm sai giữa âm: l, n (nặc nô thì đọc là lặc lô, ...). Tôi hướng dẫn các em như sau: Các em hãy lắng nghe cô đọc này: khi đọc âm “n” ta phải đặt lưỡi ở trên vòm miệng và bật nhanh “n”. Hơn nữa nghĩa của từ “nặc nô” (ý nhạo báng) còn từ “ lặc lô” nghĩ không rõ ràng. Tôi đọc lại từ trên gọi ngay trò đọc theo. Cứ thế dẫn dắt các em sẽ tiến bộ rõ rệt. Khi các em phát âm chuẩn rồi và hiểu nghĩa được từ trong các bài tập đọc rồi thì tôi tin chắc các em sẽ học tốt phân môn Chính tả và phân môn Luyện từ và câu. Hay khi tôi gọi một học sinh khá đọc mẫu đoạn 3 của bài: Tôi gọi nhóm 1 (nhóm các em giỏi: “Đọc tốt”) nhận xét trước. Sau đó gọi nhóm 3 (nhóm các em yếu) nhận xét sau. Bạn đọc có hay không các con? Các em trả lời có ạ !Tôi gọi một em kém trả lời. Bạn đọc hay ở chỗ nào? để tự các em nhận xét. Khi các em trả lời xong, tôi đã nắm được sự nhận thức của từng em yếu rồi tôi bồi dưỡng, sửa cho các em bằng cách cho em đọc lại đoạn 3 của bài. Rèn cho học sinh kỹ cách đọc nhiều lần, hướng dẫn cách ngắt hơi, nghỉ đúng chỗ, nhấn giọng từ. Cứ thế nhiều lần em sẽ tiến bộ trông thấy. Đối với những em đọc thiếu, thừa hoặc đọc chưa trôi chảy tôi bắt đọc đi đọc lại nhiều lần câu đó. Lúc đó, để làm vơi đi sự căng thẳng của học sinh tôi đưa ra một số câu hỏi sau: “Con chuẩn bị làm nhà văn hay sao mà lại sửa văn của người khác? Cả lớp cười” Bằng cách đó tôi sửa lại cho các em, đưa vào câu nói khích lệ sẽ giúp các em nhớ lâu, từ đó các em sửa sẽ nhanh hơn. (Từ cách làm này tôi tin chắc không những các em sẽ đọc đoạn văn một cách trôi chảy hơn mà còn giúp các em học tốt hơn trong phân môn Tập làm văn) *Ngoài những biện pháp trên người giáo viên cần lưu ý: - Việc rèn đọc đòi hỏi người giáo viên không được nản, không được buông thả đòi hỏi chúng ta phải tỉ mỉ và cặn kẽ. - GV cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin để tiết học sinh động hơn, hấp dẫn hơn. - Cần tích cực tổ chức học sinh học nhóm đều hơn. - Trò chơi học tập được thực hiện thông qua các bài học là rất cần thiết và có hiệu quả rất to lớn. Nếu trò chơi học tập được tổ chức phân phối một cách hợp lý vừa sức, đúng trọng tâm bài học thì không những nâng cao sự hứng thú trong học tập của học sinh mà còn phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo giúp các em tiếp thu bài mau, nhớ lâu, nắm chắc kiến thức ngay tại lớp học và qua hoạt động này có thể kích thích sự tìm tòi ở các em yếu giúp các em tập trung và nắm bắt được kiến thức. 13/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu - Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. - Mỗi một giáo viên chúng ta hãy là nguồn tài nguyên cho các em: Chỉ có giáo viên chúng ta mới biết loại sách nào, loại tài liệu nào mới phù hợp với từng đối tượng học sinh. Hãy gợi ý cho học sinh để các em mua và mượn những tài liệu phù hợp với trình độ của các em. 2.2.Môn Toán: 2.2.1. Lấp lỗ hổng kiến thức: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh" phổ biến của học sinh yếu kém toán. Trong quá trình dạy học trên lớp, tôi cần phát hiện và phân loại những lỗ hổng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Những lỗ hổng nào điển hình mà trên lớp chưa đủ thời gian khắc phục thì cần có kế hoạch tiếp tục giải quyết trong nhóm học sinh yếu kém. Thông qua quá trình học lý thuyết và làm bài tập của học sinh, tôi cũng cần tập cho học sinh, nhất là học sinh yếu kém có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của bản thân mình và biết cách tự lấp những lỗ hổng đó. *Ví dụ như dạy bài: Nhân với số có ba chữ số Ở bài này các em cần nắm vững các bảng nhân từ 2 đến 9; Bước 2 nhân từ phải sang trái. Thế nhưng khi các em thực hiện nhiều khi các em không thuộc bảng nhân nên dẫn đến kết quả sai, hoặc các em quên không nhớ làm kết quả cũng không đúng. Tôi phát hiện ra là các em đã bị hỏng kiến thức ở lớp 2, lớp 3 rất nhiều dạng. Cụ thể như phép tính: 164 x 123 (Khi nhân nhẩm ở hàng đơn vị và hàng chục: 3 x 4 = 12 viết 2 nhớ 1 sang hàng chục thì các em thường quên không nhớ. Tiếp đó khi phép nhân có nhớ lần thứ hai thì các em cũng thường hay quên hoặc nhớ mội cách không đúng). Vì vậy tôi nghĩ ra cách lấp lỗ hỏng đó như sau: Tôi phải sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hiện khi nhân quá 10 thì phải nhớ sang hàng liền kề trước đó . Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ kĩ hơn, sau đó tôi cho các em đọc đi đọc lại nhiều lần (3 x 4 = 12 viết 2 nhớ 1; 3 x 6 = 18 thêm 1 bằng 19, viết 9 nhớ 1). Tương tự như thế với những phép tính khác. Trong 15 phút đầu giờ tôi hướng dẫn cho các em tổ chức trò chơi: "Đố bạn biết đó là số nào?” Nhóm học sinh 14/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu khá, giỏi nêu bất kì phép tính nào thuộc dạng nhân với số có 2 chứ số trở lên. Nhóm học sinh yếu thi nhau nêu số cần điền. . . 2.2.2.Luyện tập vừa sức: Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức và tăng cường luyện tập vừa sức. Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh yếu kém. Vì vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh yếu kém, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Khi giải dạng bài có lời văn tôi cần lưu ý những điều sau đây: Đảm bảo học sinh hiểu đầu bài tập: Học sinh yếu kém nhiều khi vấp ngay từ bước đầu tiên, không hiểu bài toán đó nói gì thì không thể tiếp tục quá trình giải toán. Vì vậy, giáo viên nên lưu ý giúp các em hiểu rõ đầu bài, nắm được cái gì đã cho, cái gì cần tìm cần phải tìm, tạo điều kiện cho các em vượt qua sự vấp váp đầu tiên đó. *Ví dụ khi dạy dạng bài: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị. (Trang 77, Toán 4) Đề bài toán ở sách giáo khoa: Người ta đổ đều 128 610 l xăng vào 6 bể. Hỏi mỗi bể có bao nhiêu lít xăng ? (1, 2 nhóm khá, giỏi làm) *Tôi đã hướng dẫn nhóm học yếu giải như sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán (Xác định dạng toán) - Bước 2: Tóm tắt đề toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Bước 3: Phân tích bài toán. - Bước 4: Viết bài giải. - Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. *Cụ thể như sau: - Đọc kĩ đề toán: Đối với đối tượng học sinh yếu đọc ít nhất 3 lần có như thế mới giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản: Những “dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những ẩn số” là những cái chưa biết và cần phải tìm, cuối cùng là những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. Tránh thói quen xấu là vừa đọc đề xong đã vội làm ngay. - Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề, các em biết lượt bớt một số câu chữ, làm cho bài toán gọn lại. Nhờ đó đã làm rõ mối quan hệ cái đã cho và cái phải tìm.Trong thực tế có rất nhiều cách tóm tắt một bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi hơn. Thế nhưng đối 15/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu với các em học sinh yếu tôi chỉ hướng dẫn các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu và rõ nhất là được, chẳng hạn như cách tóm tắt bằng chữ. *Ví dụ : 1 phút tim đập : 75 lần 24 iờ tim đập: ? lần - Phân tích bài toán: Tóm tắt xong các em cần phải phân tích đề bài để tìm ra cách giải. Đối với học sinh yếu ở bước này tôi cần sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp. Phân tích bài toán theo sơ đồ dưới dạng các câu hỏi như sau: + Bài toán trên cho biết gì? (1 phút tim đập : 75 lần) + Bài toán hỏi gì? (24 giờ thì tim đập được mấy lần) + Muốn tìm 24 giờ thì tim đập được mấy lần thì ta cần phải biết gì? (Phải biết số phút trong 24 giờ) + Vậy làm cách nào để tìm được số phút trong 24 giờ? (ta làm phép tính gì? (làm phép tính nhân: lấy 60 phút trong 1 giờ nhân với 24 giờ bằng 1440 phút) + Vậy ta phải tìm số lần tim đập trong 1440 phút bằng cách nào nhỉ? (Lấy số lần tim đập trong 1 phút nhân với số phút trong 24 giờ thì ra kết quả.) Nếu đến bước này có học sinh nào không hiểu tôi sẽ minh họa bằng sơ đồ đoạn thẳng (Chẳng hạn vẽ 1 đoạn thẳng nhỏ tượng trưng cho số lần tim dập trong 1 phút là 75 lần; vẽ 1 đoạn thẳng khác dài 24 giờ thì tim đập được ? lần) + Giáo viên giảng lại cho những học sinh yếu biết được số lần tim đập trong 1 phút là 75 lần rồi, thế để tìm 24 giờ tim đập được mấy lần ? (Lấy 75 kg nhân với số phút trong 24 giờ vừa tìm được là 1440 phút). Nếu có học sinh nào không hiểu tôi sẽ tiếp tục cho các em minh họa bằng đồ dùng trực quan. -Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, tôi đã hướng các em hoàn thiện bài toán một cách đầy đủ, chính xác và tôi chỉ việc yêu cầu các em cách trình bày bài toán cân đối ở vở là được. Cuối cùng, khi củng cố dạng bài toán này tôi cho học sinh rút ra các bước cơ bản sau: - Đọc kĩ đề toán. - Phân tích đề toán xem bài toán đó đã cho biết gì và bắt đi tìm cái gì ? - Tóm tắt và giải trên giấy nháp cho rõ rang. -Kiểm tra lời giải và đánh giá kết quả: Đối với những em học yếu thì việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với các em. Cho nên tôi cần hướng dẫn các em các bước như sau: + Đọc lại lời giải. + Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí so với yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. 16/20 Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu + Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. + Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề chưa. 2.2.3. Rèn luyện kĩ năng học tập: Yếu về kĩ năng học tập là một tình hình phổ biến của học sinh yếu kém toán. Hơn nữa, có thể nói rằng đó là nguyên nhân của tình trạng yếu kém đối với một bộ phận trong những học sinh diện này.Vì vậy, một trong những biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu kém là giúp đỡ các em về phương pháp học tập. Ngoài việc hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng học tập môn toán, tôi cần phải lưu ý và bồi dưỡng cho các em ngay cả những hiểu biết sơ đẳng về cách thức học tập toán như: + Nắm được lý thuyết (Tức là phải thuộc, hiểu lý thuyết) mới làm được bài tập. + Cần đọc kĩ đề bài. + Vẽ hình sáng sủa. + Viết nháp rõ ràng. Đặc biệt, giáo viên cần đấu tranh kiên trì với những thói quen xấu của học sinh như: chưa học lý thuyết đã lao vào làm bài tập, không đọc kĩ đầu bài trước khi làm bài tập, vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn,... 2.3.Không chỉ đối với hai môn Toán, Tiếng Việt, ngoài ra giáo viên còn cần lồng ghép việc bồi dưỡng, giáo dục học sinh yếu kém vào tất cả các tiết học, các môn học: 2.3.1.Tạo cơ hội cho những học sinh yếu hơn được thể hiện sự hiểu biết của mình Tạo điều kiện cho các em được t
Tài liệu đính kèm: