1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em mẫu giáo cần phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mĩ, hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống
cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm
ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những
mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ giáo dục cần chú trọng đến vấn đề giáo
dục tính tự lập cho trẻ.
Quá trình tự lập được hình thành rất sớm có ảnh hưởng các phẩm chất nhân
cách của trẻ. Một số dấu hiệu bắt đầu sự hình thành tính tự lập, đó là nhu cầu tự
khẳng định mình. Trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hằng ngày.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng
tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để
hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ năng sống sau
này.
Thực tế đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục
nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá
mức chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin
trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng
thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường “Sốt
ruột” và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười
biếng mất tự tin ở trẻ.
thấy có nhu cầu. - Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây. Việc xác định được những kỹ năng như trên đã giúp tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc thực hiện đề tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ xác định được những kỹ năng đó mà tôi đã rèn trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Tôi đã giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của hành động, của công việc đó như thế nào, biết được việc nào nên làm và việc nào không nên làm, việc đó có ích lợi gì để từ đó giúp trẻ dần dần trở thành ý thức cần có trong cuộc sống hàng ngày. 2. Khảo sát khả năng tự lập của trẻ: Từ những nhận thức của mình về vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo bé, tôi định hướng được nhiệm vụ của mình trong công việc nghiên cứu này. Và để gặt hái được nhiều kết quả tốt trong quá trình thực hiện, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ theo những kỹ năng cấn thiết để giáo dục tính tự lập cho trẻ mà tôi đã xác định ở trên. Qua khảo sát tôi thấy trẻ lớp tôi đa số còn chưa biết cách tự phục vụ bản thân, chưa có ý thức giữ gìn vệ sinh thân thể, đặc biệt kỹ năng hỗ trợ người khác còn rất ít trẻ đạt yêu cầu. Trẻ lớp tôi còn luôn ỉ lại, dựa dẫm vào cô giáo trong lớp, nếu không 6 có cô giúp hoặc nhắc nhở thì trẻ không biết phải làm gì. Từ kết quả trên tôi đã cố gắng định hướng cho trẻ cần phải làm những gì đầu tiên sau đó dần dần đạt được kết quả mình muốn và nghiên cứu các biện pháp cụ thể để giáo dục tính tự lập cho trẻ. 3. Luyện tập cho trẻ các công việc tự phục vụ vừa sức: Ở tuổi lên ba trẻ đã hình thành và phát triển ý thức “Cái tôi” của mình, trẻ tích cực tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh, trẻ rất muốn tự làm mọi việc để khẳng định mình. Ý thức này chi phối phần lớn các hoạt động trong ngày của trẻ. Vì vậy tôi luôn tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ kết hợp sử dụng phương pháp khích lệ động viên trẻ. ● VD: Tôi thấy khi tới lớp trẻ rất thích được tự cởi giày, dép và tự máng đồ của mình mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác, mặc dù mỗi lần trẻ làm công việc đó rất lâu, nhưng những lần như vậy tôi luôn đứng bên cạnh chờ đợi trẻ kết hợp động viên trẻ. Hay một số trẻ lớp tôi rất thích được tự lấy bánh, tự mở nắp chai nước nhưng rất lâu mới lấy, mở nắp được. Một số trẻ mặc quần hơi bó sát, mỗi lần đi vệ sinh kéo quần xuống hơi khó nhưng trẻ vẫn thích tự làm. Nhưng tôi không tỏ ra quá sốt ruột mà thường xuyên dùng lời nói động viên trẻ, khuyến khích trẻ kéo dây kéo cặp ra lấy bánh, khi ăn xong lấy rác bỏ sọt rác, hướng dẫn trẻ cách kéo quần đi vệ sinh cho tiện lợi. Tôi nghĩ nếu tôi thấy sốt ruột khi trẻ làm lâu mà làm hộ trẻ, thì dẫn đến trẻ sẽ ỉ lại, không tự làm và luôn chờ đợi sự giúp đỡ của cô trong mỗi công việc. Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được làm việc có khi còn tỏ ra bướng bỉnh. Những lúc đó tôi rất thông cảm và hiểu được “bướng bỉnh” ở lứa tuổi này và không kìm hãm ý muốn tự lập của trẻ. Khi trẻ thực hiện công việc đó mất rất nhiều thời gian, không theo mong muốn của tôi, đôi khi còn bừa bãi, thậm chí còn hỏng việc. Song tôi vẫn luôn kiềm chế cảm xúc, kiễn nhẫn đợi trẻ làm xong tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc. ● VD: Như lớp tôi có một số trẻ rất thích giúp cô chia màu tô cho các bạn, nhưng loay hoay mãi không biết chia như thế nào, có khi còn chia thiếu, rồi làm rơi hết xuống sàn. Mỗi lần như vậy tôi không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ hướng dẫn trẻ đếm và chia màu tương ứng với số bạn trong bàn đó, sau đó tôi cho trẻ chia tiếp các bàn tiếp theo. Sau mỗi lần được tôi hướng dẫn động viên trẻ của tôi giờ làm rất thành thạo và trẻ nào cũng muốn được giúp cô. Được tự tay làm những công việc mình thích tôi thấy trẻ rất phấn khởi, có thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới xong, nhưng các lần sau đó tôi thấy các thao tác của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Qua đó những kiến thức tự trải nghiệm của trẻ sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn rất nhiều. Trong quá trình giáo dục cần hình thành ở trẻ những kỹ năng và thói quen tự lập. Trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng tự mình làm một số công việc đơn giản, trẻ cũng có ý thức về điều đó và cũng có mong muốn được làm. Giáo dục tính tự 7 lập cho trẻ bắt đầu từ thói quen tự phục vụ, thói quen vệ sinh cá nhân, thói quen giúp đỡ người khác, những thói quen đó đòi hỏi phải tác động đến trẻ một cách lâu dài, có hệ thống và nhất quán vì trẻ dễ nhớ nhưng cũng chóng quên. Vì vậy việc luyện tập thường xuyên các công việc tự phục vụ vừa sức cho trẻ là rất quan trọng và cần thiết. Để trẻ đạt được việc tự lập hoàn toàn, tôi đã thực hiện các quá trình “Cùng hành động” nghĩa là cho trẻ làm cùng cô. Khi cùng làm với trẻ tôi thường kết hợp giảng giải, giải thích cho trẻ biết lý do và cách thức hành động. ● VD: Khi trẻ mới đến trường phải cất đồ vào đúng nơi, tôi đi cùng trẻ đến nơi đó chỉ cho trẻ biết đây là nơi con sẽ cất đồ của con vào đó, nhưng trước khi cất con phải kéo dây kéo gấp đồ gọn gàng vào đã. Tôi còn giải thích cho trẻ khi cất gọn gàng thì khi đến giờ về lấy rất dễ dàng. Không những vậy ngày nào tôi cũng cho trẻ phải gấp gọn gàng vào cặp rồi mới được móc cặp cất. Sau một, hai lần tôi nhắc nhở và ngày nào trẻ cũng được thực hành các thao tác đó nên trẻ cất và lấy đồ dùng rất thành thạo và không cần đến sự giúp đỡ của người lớn nữa. Để giúp trẻ thực hiện được các thói quen tự phục vụ một cách phấn khởi và nhớ lâu tôi đã kết hợp lồng ghép những bài thơ, bài hát có ý nghĩa giáo dục giữ gìn vệ sinh để trẻ dễ dàng thực hiện các kỹ năng đó. ● VD: Trước giờ chơi tôi cho trẻ đọc một số bài thơ: Đồ chơi, Hết giờ chơi Thời gian đầu năm tôi vừa làm mẫu kết hợp phân tích cách làm các kỹ năng cần thiết, sau đó tôi cho trẻ tự làm, chỉ nhắc nhở bằng lời đối với những trẻ nhút nhát, và tôi cho trẻ thường xuyên được thực hành các kỹ năng đó (Tự rửa tay, rửa mặt, tự cởi quần, tự cất và lấy dép đúng nơi qui định) Đa số trẻ lớp tôi đều xung phong muốn làm giúp cô lấy gậy, vòng ..ra sân, vào lớp khi tập thể dục buổi sáng. Để trẻ nào cũng được làm mỗi ngày tôi nhờ một nhóm trẻ khác nhau giúp mình. Thế là cả lớp tôi trẻ nào cũng thành thạo tất cả các kỹ năng cần thiết để hình thành nhân cách sau này cho trẻ. 4. Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập vào các hoạt động học và chơi: Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo hướng đổi mới thể hiện được mối quan hệ hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với nhau, chúng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, đặc biệt là nhu cầu và hứng thú của trẻ trong hoạt động. Trong suốt thời gian trẻ tham gia hoạt động cần duy trì tính hấp dẫn của nhiệm vụ, tạo cho trẻ có hứng thú và niềm say mê khám phá thế giới thông qua các trò chơi và các hoạt động tìm tòi khám phá. Trẻ chủ động tích cức tham gia các hoạt động trải nghiệm, các tình huống khác nhau của cuộc sống. Dần dần trẻ trở nên tích cực chủ động, linh hoạt và tự tin trong mọi hoàn cảnh. Tính tự lập của trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động, trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với trẻ lên ba đã bắt đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó và luôn chứng tỏ khả năng của mình trong sinh hoạt hàng ngày. Trong giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ 8 dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy tôi cho trẻ tự cất đồ dùng học tập đúng nơi qui định. ● VD: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị rổ đồ dùng cho mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn, tôi cho mỗi trẻ lên lấy một rổ về chỗ của mình để học. Sau khi học xong tôi cũng cho trẻ cất đồ dùng về đúng vị trí. Hay trong giờ học tạo hình cần đến hộp màu tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và hộp màu cho các bạn. Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất tích cực, hứng thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì ở các đồ dùng đó, giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến cuối giờ học. Qua đó tôi còn rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn nắp, lấy đâu cất đấy. Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ hoạt động góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn khởi, mong chờ nhất. Không những vậy hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất nó giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi này, qua hoạt động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì vậy đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ vật không phải là thứ để trẻ nghịch như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ vật, đồ chơi giúp trẻ khám phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng. Chính vì vậy tôi rất chú trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ chơi và chơi với bạn bè. Ngoài ra trong quá trình chơi với đồ vật trẻ còn bắt chước thao tác của người lớn. Trò chơi phân vai chính là một hoạt động phản ánh thực cuộc sống xã hội thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí chủ thể của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những gì mà mình thích chứ không phải là những gì người khác ép buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất hiện ở trẻ sự tích cực tự nguyện. Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thấn. Chơi là để học hỏi làm người là để phát triển nhân cách một cách toàn diện. Với những ý nghĩ to lớn đó, có thể khẳng định rằng: Chơi cũng lá cách để rèn luyện và phát huy khả năng tự lập. Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ được thể hiện khả năng tự lập của mình. Trẻ luôn luôn mong muốn mình được tự giải quyết lấy mọi tình huống, chúng có xu hướng tự hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của ai. Trẻ có thể tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng say, thích thú. VD: Trong hoạt động góc có rất nhiều góc chơi, trong mỗi góc lại có nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cô giới thiệu các góc chơi, nhiệm vụ của từng vai chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn góc phân vai, có trẻ chọn góc xây dựngLần đầu tiên cháu được đóng làm chú công nhân, được đóng vai bố, mẹ, vai y tá, bác sĩ,Làm chú công nhân phải xây nhà, xây hàng rào và xây nhiều công trình khác. Khi đó trẻ sẽ nghĩ ra cách làm cho đẹp, cho nhanh. Được đóng vai bố, mẹ trẻ sẽ tự làm công việc của bố là đi làm hoặc là làm công nhân hoặc là một nông dân chăm sóc cây trong vườn hoặc đưa trẻ đi học, đi chơi công viên 9 làm mẹ là biết bế em, cho bé ăn, quét dọn nhà cửa,nấu cơm Làm y tá, bác sĩ trẻ sẽ khám bệnh, kê đơn thuốc, tiêm thuốc Khi trẻ hoạt động cô giáo tạo tình huống để trẻ giải quyết. Đồng thời gợi ý, hướng dẫn thêm để mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ trong lúc chơi. Từ những giai đoạn sau khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp quá sâu vào trò chơi của trẻ để trẻ bộc lộ khả năng tự lập của mình. Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với đồ vật, giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống. 5. Giáo dục, rèn luyện tính tự lập cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi Phần lớn trẻ 3 tuổi tính tự lập đã phát triển. Trẻ thường thích tự làm mọi việc, Tuy nhiên các thao tác còn vụng về, lúng túng dễ làm hỏng việc, cần phải có sự hướng dẫn trẻ trong công việc để trẻ làm đúng theo yêu cầu của người lớn. Bản thân người lớn cần tạo điều kiện trẻ hoạt động một cách tự lập tức là tạo cho trẻ tự tin thực hiện. Trẻ làm sai người lớn chỉ dẫn trẻ làm lại thì sẽ được, có như vậy trẻ mới được trải nghiệm công việc mình làm nó khó và dễ như thế nào. Người lớn ở đây là cô giáo, là cha mẹ và những người thân trong gia đình gần gũi với trẻ. Cô giáo có thể giúp đỡ bằng các câu hỏi gợi ý, khuyến khích trẻ tích cực hoạt động và sử dụng những kinh nghiệm sẵn có của mình vào trong quá trình hoạt động. Việc làm này được lặp đi, lặp lại trong ngày, dần dần khả năng tự lập của trẻ càng phát triển. Chính vì vậy tôi đặc biệt chú trọng đến rèn trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, kỹ năng vệ sinh môi trường thông qua hai buổi tổ chức hoạt động trong tháng. Hàng ngày tôi thường chú trọng dạy trẻ những hành vi văn hóa trong ăn uống qua đó rèn kỹ năng lao động tự phục vụ và kỹ năng giúp đỡ người khác như: Biết rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, sau khi ăn, hoặc biết giúp cô giáo dọn dẹp, xếp đồ dùng đồ chơi đúng chỗ, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người khác.... Khi ra sân trong giờ hoạt động ngoài trời phải biết nhặt rác bỏ vào thùng, ,.... Khi thực hiện các hoạt động này tôi cùng làm với trẻ và tôi thường giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa tác dụng của từng hoạt động. Từ đó trẻ sẽ hiểu và học tập theo cô, dần dần hoạt động có ý thức đó sẽ trở thành kỹ năng giúp trẻ thực hiện hoạt động một cách tự nguyện mà không có cảm giác ép buộc sai khiến. Trẻ còn cảm thấy vui vì đã làm được một việc nên làm giống như lời cô dạy. Trong quá trình trẻ thực hiện cô cùng làm với trẻ nhưng vẫn phải theo dõi, giám sát và cho trẻ tự giải quyết một số tình huống xảy ra như: có vài bạn không tự giác bỏ rác vào sọt, thao tác vệ sinh không gọn gàngCô gợi ý cho trẻ giải quyết bằng cách nhắc nhở lẫn nhau nhưng tuyệt đối tránh tình trạng “Thủ lĩnh”. Nếu được bạn góp ý mà trẻ không xoay chuyển thì cô mới giải quyết. Từ đó hình thành cho trẻ bản lĩnh, sự linh hoạt giải quyết các tình huống xảy ra. 6. Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ: 10 Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức, giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô và bạn. Tuy nhiên để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất, tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà cha mẹ lại luôn làm giúp trẻ mọi việc. Chính vì không muốn tình trạng đó xảy ra nên tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở trường và đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Bởi không phải phụ huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó. Đa số phụ huynh đều đã nhận thấy vai trò và tính quan trọng của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ. Số phụ huynh nhận thấy tầm quan trọng của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ bởi phụ huynh đã thường xuyên rèn luyện tính tự lập cho con mình tại gia đình, họ thấy trẻ rất mạnh dạn, tự tin trong mọi công việc hàng ngày trong gia đình cũng như ở những nơi công cộng khác. Bên cạnh đó có một số phụ huynh thì lại cho rằng 5-6 tuổi mới phù hợp để rèn tính tự lập vì ở lứa tuổi đó trẻmới có thể tự làm được những kỹ năng tự phục vụ. Trong quá trình rèn tính tự lập cho trẻ, một số phụ huynh tâm sự rằng có nhiều vướng mắc khi giáo dục tính tự lập cho trẻ vì do thời gian dành cho trẻ còn hạn chế; nhiều gia đình thì không thống nhất được quan điểm giáo dục trẻ; bố, mẹ thì muốn con tự làm những công việc vừa sức, nhưng ông, bà sợ cháu mệt thì làm hộ trẻ dẫn đến kết quả của việc rèn tính tự lập cho trẻ chưa thành công. Một số phụ huynh khác thì có ý kiến hoàn toàn nhờ cô giáo chủ nhiệm, chứ về nhà bố, mẹ nói trẻ không nghe lời. Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập, tự làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn trẻ làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ đã biết làm rồi thì người lớn nên khuyên khích động viên trẻ, cho trẻ rèn luyện tính tự lập đó nhiều lần để trở thành các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống của trẻ. ● VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố mẹ nuông chiều không bao giờ tự làm một việc gì, đến lớp thì đợi cô và bạn làm giúp. Tôi đã trò chuyện với phụ huynh để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tôi tuyên truyền cho họ các phương pháp về giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ để phụ huynh có thể áp dụng tại gia đình. Tôi có thể gợi ý cho họ về cách giáo dục trẻ tự lập “Anh chị cứ để trẻ tự cất dép, máng cặp đi vì mỗi ngày ở trường trẻ phải tự làm được đấy chị ạ, chị cứ để bé tự lấy thử xem.” Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các điều kiện và tình huống hàng ngày như quan sát xem trẻ có biết tự đi rửa tay bằng xà phòng khi thấy tay bẩn chưa, hay sau khi đi vệ sinh đã biết xả nước chưa, sau khi 11 chơi xong có biết tự đi cất đồ chơi gọn gàng hay cần bố mẹ nhắc nhở, giúp đỡ, khi người lớn nhờ trẻ lấy giúp ly nước, bật ti vi, hay tắt quạt thì biểu hiện của trẻ ra sao. Trẻ có thích tự xúc cơm, tự mặc chuẩn bị quần áo khoác, khẩu trang khi đi ra đường hay không.để từ đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm. Trong gia đình việc tạo môi trường tự lập cho trẻ là rất cần thiết. Vì vậy người lớn trong gia đình cần tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm nhiều hơn như: Dọn đồ chơi, nhặt rau cùng mẹ, tự xúc cơm ăn. Khi làm một việc gì cùng trẻ nên phân tích, giảng giải cho trẻ biết lý do và cách thức hành động. Tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào bất kỳ việc gì trẻ muốn (phơi quần áo mẹ nhờ bé đưa dần cho mẹ tất, quần áo của bé để mẹ phơi lên dây,.) Tuy có mất thời gian một chút, nhưng sự kiên nhẫn của người lớn là chìa khóa thành công của trẻ, dần dần sẽ hình thành trẻ tính tự giác, tính tự quyết định, khả năng tự xoay sở của mình. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ của lớp tôi luôn có tính tự lập cao, trẻ mạnh dạn tự tin, các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ người khác luôn thành thạo và rất vui vẻ nhiệt tình khi được tự lập. 7. Phối hợp với đồng nghiệp nhận thức sâu sắc về việc rèn tính tự lập cho trẻ: - Việc rèn tính tự lập cho trẻ nên bắt đầu từ khi còn nhỏ, ngay từ tuổi mẫu giáo, rèn kỹ năng tự lập cho trẻ giúp trẻ tự tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống. - Giáo viên cần tạo cơ hội để trẻ được tương tác với bạn bè, người lớn, được trải nghiệm thực hành và luyện tập thường xuyên ở trường cũng như ở gia đình thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng như học tập, vui chơi, lao động, sáng tạo nghệ thuật, - Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ có một tính cách riêng, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. - Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết lắng nghe trình bày và mạnh dạn diễn đạt được ý của mình khi tham gia vào các hoạt động nhóm khác nhau, trẻ tham gia mọi hoạt động tích cực và hứng thú. Giúp trẻ luôn cảm thấy mạnh dạn tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh. - Giáo viên cần theo dõi sát sao từng hoạt động của trẻ để kịp thời khuyến khích và chỉ dạy trẻ. Các bài học đều là những hành động đơn giản, nhưng với trẻ là những điều mới lạ và rất khác biệt, đồng thời không phải tốc độ thực hiện của trẻ nào cũng như nhau nên điều quan trọng là giáo viên cần khuyến khích trẻ. Bất cứ lúc nào trẻ làm thử việc gì, dù trẻ có làm được hay không, giáo viên cũng nên biểu dương sự cố gắng của trẻ và khuyên trẻ làm thử lại một lần nữa. Giáo viên không 12 nên vội giúp trẻ mà điều cần thiết là hướng dẫn trẻ tự làm và cho trẻ có đủ thời gian để tự mình làm được những điều này, việc nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào mỗi đứa trẻ. Vì thế giáo viên đừng tạo áp lực cho trẻ mà hãy cư xử thật khéo léo
Tài liệu đính kèm: