Hiện nay, giáo dục quyền trẻ em đang được đưa vào môn Đạo đức nói chung và môn Đạo đức lớp 2 nói riêng. Có một số bài được tích hợp nội dung này như "Học tập, sinh hoạt đúng giờ", "Biết nhận lỗi và sửa lỗi", "Gọn gàng, ngăn nắp", "Chăm làm việc nhà", .
Ví dụ: Ở bài "Học tập, sinh hoạt đúng giờ" với những nội dung về quyền trẻ em được lồng ghép như: Quyền được học tập, được đảm bảo sức khoẻ, quyền được tham gia xã hội thời gian biểu của bản thân.
So với chương trình môn đạo đức cũ thì chương trình mới có những điểm đáng chú ý sau:
+ Nếu chương trình cũ có 15 bài bắt buộc, không có bài dành cho địa phương tự chọn thì chương trình mới có 14 bài bắt buộc và 1 bài tự chọn dành cho địa phương.
+ Có 8 bài ở chương trình cũ được giữ lại là: "Học tập, sinh hoạt đúng giờ". "Biết nhận lỗi và sửa lỗi"; "Gọn gàng, ngăn nắp"; "Chăm chỉ học tập"; "Quan tâm, giúp đỡ bạn", "Giữ gìn trường lớp sạch đẹp"; "Trả lại của rơi", "bảo vệ loài vật có ích".
+ Có 6 bài mới là: "Chăm làm việc nhà"; "giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng"; "Biết nói lời yêu cầu đề nghị"; "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại",
"Lịch sự khi đến nhà người khác"; "Giúp đỡ người khuyết tật".
Trong 6 bài này, có 2 bài được xây dựng từ chương trình cũ (chăm làm việc nhà - Lớp 3; Giữ trật tự vệ sinh nơi công cộng - Lớp 4) và 4 bài còn lại là mới.
- Thời gian thực hiện cả năm là 35 tiết, trong đó có 28 tiết để thực hiện 14 bài bắt buộc, 3 tiết dành cho địa phương, 4 tiết dành cho ôn và kiểm tra học kỳ I, kiểm tra học kỳ II, kiểm tra cả năm.
- Một số bài có thể được coi là khó như: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại"; "Giúp đỡ người khuyết tật".
Như vậy nội dung chương trình đạo đức lớp 2 không chỉ giáo dục bổn phận, mà trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân, biết tự chăm sóc bản thân, có trách nhiệm về các hành vi, việc làm của bản thân. Nội dung chương trình đạo đức lớp 2 gần gũi với cuộc sống thực của học sinh. Các tranh ảnh, truyện, tình huống, tấm gương, . để dạy - học môn Đạo đức lớp 2 được lấy từ chính cuộc sống thực của học sinh, với các mối quan hệ gần gũi, quen thuộc hàng ngày của các em.
ệ sinh nơi công cộng - Lớp 4) và 4 bài còn lại là mới. - Thời gian thực hiện cả năm là 35 tiết, trong đó có 28 tiết để thực hiện 14 bài bắt buộc, 3 tiết dành cho địa phương, 4 tiết dành cho ôn và kiểm tra học kỳ I, kiểm tra học kỳ II, kiểm tra cả năm. - Một số bài có thể được coi là khó như: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại"; "Giúp đỡ người khuyết tật". Như vậy nội dung chương trình đạo đức lớp 2 không chỉ giáo dục bổn phận, mà trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà trường, xã hội, môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục học sinh có trách nhiệm đối với chính bản thân, biết tự chăm sóc bản thân, có trách nhiệm về các hành vi, việc làm của bản thân. Nội dung chương trình đạo đức lớp 2 gần gũi với cuộc sống thực của học sinh. Các tranh ảnh, truyện, tình huống, tấm gương, ... để dạy - học môn Đạo đức lớp 2 được lấy từ chính cuộc sống thực của học sinh, với các mối quan hệ gần gũi, quen thuộc hàng ngày của các em. * Chương trình môn Đạo đức lớp 3: Ở lớp 3 chương trình môn Đạo đức bao gồm 14 bài phản ánh các chuẩn mực hành vi đạo đức cần thiết nhất, phù hợp với lứa tuổi của các em. Các bài học này nhằm xây dựng cho học sinh tính kiên trì, bền bỉ trong học tập, biết giúp đỡ và chăm sóc những người thân, những người có hoàn cảnh khó khăn, ... Đó là những điều rất cần thiết cho việc hình thành phát triển nhân cách học sinh. * Chương trình môn Đạo đức lớp 4, 5: Chương trình vẫn đảm bảo tính đồng tâm với chương trình môn Đạo đức lớp 1, 2, 3. Nhưng có cung cấp thêm một số hành vi, chuẩn mực cho học sinh như: Thói quen đúng giờ và không chỉ giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn mà giúp đỡ những người gần gũi xung quanh mình như: Thầy cô, bạn bè, hàng xóm. Chương trình môn Đạo đức lớp 4, 5 còn cung cấp cho học sinh những điều cần thiết trong cuộc sống: Bảo vệ các công trình công cộng, các di tích lịch sử văn hoá, cây trồng vật nuôi, ... Có thể nói: Nội dung chương trình môn Đạo đức lớp 4, 5 cũng dựa trên cơ sở các lớp 1, 2, 3 nhưng yêu cầu hành vi, chuẩn mực đạo đức cần cung cấp cho các em có phần mở rộng hơn, sâu hơn, phù hợp với khả năng nhận thức của từng lứa tuổi. Do đó toàn bộ nội dung chương trình môn Đạo đức ở Tiểu học đều mang tính kế thừa, đồng tâm trên nền tảng của năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng. 2. Cấu trúc một bài đạo đức lớp 2: Môn Đạo đức lớp 1,2,3 không có sách giáo khoa mà thay vào đó là vở bài tập. Mỗi bài đạo đức chia làm 2 phần : Các bài tập và ghi nhớ. Một bài đạo đức lớp 2 được dạy trong hai tiết, một tiết tìm hiểu nội dung bài thông qua các hoạt động, một tiết thực hành luyện tập. Một bài học được hình thành kiến thức trên cơ sở từ một truyện kể, một việc làm, một hành vi, chuẩn mực nào đó, sau đó rút ra bài học. Từ bài học đó các em liên hệ thực tế xung quanh, bản thân, gia đình và xã hội. II. CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ QUY TRÌNH DẠY MỘT TIẾT ĐẠO ĐỨC LỚP 2: 1. Quy trình một tiết dạy Đạo đức: * Tiết 1: 1) Kiểm tra bài cũ - Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức của bài học trước. 2) Bài mới a) Giới thiệu bài – Khám phá - Hình thức: Giáo viên nêu mục tiêu tiết học hoặc tổ chức các trò chơi, bài hát có liên quan đến chủ đề bài học. - Mục đích: Khơi gợi hứng thú học tập, xây dựng động cơ học tập đúng đắn, có mục đích. - Yêu cầu: Phải dẫn dắt khéo léo, làm xuất hiện những tình huống có vấn về, kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh. b, Kết nối - Hoạt động 1: Giới thiệu mẫu hành vi. - Mục tiêu: Học sinh được quan sát mẫu hành vi chuẩn từ một truyện kể, hoặc một tiểu phẩm, một việc làm, học sinh nhận biết được đó là hành vi đúng. - Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp: - Đóng vai - Kể chuyện - Quan sát - Thảo luận - Đàm thoại. c/ Thực hành /Luyện tập Hoạt động 2: Luyện tập theo mẫu hành vi Mục tiêu: Học sinh vận dụng kiến thức đã rút ra từ hoạt động 1, luyện tập theo mẫu hành vi đúng, đồng thời xử lý những tình huống đạo đức theo yêu cầu của bài học. Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp: - Ứng xử tình huống - Tập luyện theo mẫu hành vi - Tổ chức trò chơi. - Đóng vai - Thảo luận - Hỏi đáp Hoạt động 3: Liên hệ.( Bài tỏ thái độ, đóng vai,đánh giá hành vi..) - Mục tiêu: Học sinh biết tự xem xét. Đối chiếu các hành vi chuẩn mực đạo đức đã học với bản thân mình và các bạn trong lớp xem bản thân học sinh đã thực hiện được các hành vi đạo đức đúng đắn chưa, nếu chưa thực hiện được các em biết tự mình sửa chữa để ứng xử trong cuộc sống. Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp. - Đàm thoài - Điều tra - Đánh giá, tự đánh giá - Nêu gương. - Khuyến khích khen thưởng. -Đóng vai - Phê bình trách phạt. * Liên hệ thực tế: Có thể chọn 2 trong 3 hình thức sau: - Giáo viên nêu 1 - 2 câu hỏi để kiểm tra kiến thức đã nắm được qua giờ học. - Kể cho các em nghe câu chuyện theo gương tốt người tốt việc tốt có liên quan đến bài học. - Học sinh hát bài theo chủ đề vừa học. - Giáo viên nhận xét tiết học. * Tiết 2: 1) Kiểm tra bài cũ - Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức của tiết 1. 2) Bài mới a) Giới thiệu bài :Khám phá: Tương tự như tiết 1 b) Tổ chức các hoạt động dạy học Thực hành tiếp tiết 1 + Hoạt động 1: Khai thác vận dụng vốn hiểu biết của mình để thực hành luyện tập củng cố kiến thức + Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp. - Quan sát tranh - Thảo luận - Đàm thoại - Ứng xử tình huống - Động não. - Hoạt động 2: Thực hành vận dụng và củng cố nâng cao kiến thức được học ở tiết 1. - Mục tiêu: vận dụng kiến thức đã rút ra từ hoạt động 1. Các em tiếp tục xử lý các tình huống đạo đức theo yêu cầu bài học. - Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng các phương pháp: + Đóng vai + Tổ chức trò chơi. + Thảo luận + Hỏi đáp + Ứng xử tình huống. - Hoạt động 3: Liên hệ: Tương tự như tiết 1. *Vận dụng: * Chú ý: Sau mỗi hoạt động giáo viên cần chốt kiến thức kỹ năng trọng tâm đã cung cấp cho học sinh. Giáo viên xây dựng và sắp xếp nội dung các hoạt động một cách hợp lý để không gây nhàm chám cho học sinh mà vẫn đạt được mục tiêu bài học. Trên đây là quy trình dạy đạo đức, chúng tôi đã thống nhất thực hiện từ đầu năm học. Tuỳ theo nội dung kiến thức của từng bài mà giáo viên phân bố thời gian và nội dung các hoạt động cho phù hợp. 2. Một số yêu cầu về dạy Đạo đức theo hướng đổi mới: - Giáo viên là người tổ chức ,hướng dẫn ,điều khiển lãnh đạo quá trình dạy học môn đạo đức ở Tiểu học. - Học sinh Tiểu học một mặt được coi là đối tượng của hoạt động dạy .Các em tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn ,tổ chức của ,điều khiển của giáo viêntrong quá trình dạy học môn này. - Dạy học đạo đức được tiếp cận theo hướng đi từ quyền đến trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy - học môn Đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, tránh được tính chất nặng nề, áp đặt trước đây. - Dạy - học môn đạo đức chỉ đạt được hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực, chủ động và tham gia vào quá trình dạy - học. - Các hoạt động dạy - học môn đạo đức ở lớp 2 rất phong phú đa dạng, bao gồm các hình thức: Xử lý, phân tích tình huống; kể chuyện; đóng vai, liên hệ, tự liên hệ, điều tra thực tiễn; lập kế hoạch hành động của học sinh; quan sát, phân tích tiểu phẩm; múa, hát, đọc thơ, vẽ tranh, triển nãm, chơi các trò chơi có liên quan đến chủ đề bài học... - Dạy - học môn Đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương sử dụng để dạy - học moon Đạo đức phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Đồng thời, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phân tích, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo các chuẩn mực hành vi đã học; Hướng dẫn học sinh điều tra, tìm hiểu, phân tích, đánh giá các sự kiện trong đời sống đạo đức của lớp học, nhà trường và địa phương. Điều đó sẽ giúp cho bài học Đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động đối với các em. - Phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học Đạo đức ở lớp 2 rất phong phú, đa dạng, bao gồm cả các phương pháp truyền thống như kể chuyện, đàm thoại, nêu gương, sử dụng đồ dùng trực quan, ... và các phương pháp hiện đại như đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức trò chơi, điều tra thực tiễn, giải quyết vấn đề, động não, ...; Bao gồm cả hình thức: Học theo lớp, theo nhóm và cá nhân; hình thức học ở lớp, ngoài sân trường, tham quan các di tích lịch sử, văn hoá các địa điểm ngoài trường có liên quan đến nội dung học tập. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn Đạo đức đều có mặt mạnh và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết dạy. Vì vậy không nên quá nạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp hoặc hình thức dạy - học nào. Điều quan trọng là cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài; căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên, tính chất từng bài, căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh, cụ thể của từng đối tượng học sinh mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho học sinh không phải là vấn đề đơn giản. Nó đòi hỏi người thầy phải có những phương pháp giáo dục phù hợp, giúp đỡ phát triển nhân cách một cách hoàn thiện, tránh cho học sinh tiếp xúc với những hành vi tiêu cực, làm sao để cho các em có được lối sống thích nghi với thời đại. Song cũng cần phải cho học sinh thấy được những nét đẹp, những truyền thống cao quý của dân tộc. Tóm lại hình thành cho học sinh một phong cách sống lành mạnh. Vậy làm cách nào để học sinh nắm bắt được kiến thức của môn Đạo đức một cách tích cực, chủ động mà không bị áp đặt gò bó. Để nâng cao hiệu quả giờ dạy tốt Đạo đức lớp 2 đòi hỏi người thầy phải biết lựa chọn sử dụng các phương pháp trong một tiết dạy nói chung và một tiết Đạo đức nói riêng là rất cần thiết. Sự kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học, lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia trong giảng dạy được coi như một nghệ thuật mà người thầy cần đạt tới. 3. Các phương pháp dạy học Đạo đức lớp 2: Phương pháp dạy học môn đạo đức ở Tiểu học là cách thức ,con đường họat động thống nhất giữa giáo viên và học sinh dưới tác động chỉ đạo của giáo viên với vai trò tích cực ,tự giác của học sinh nhằm giải quyết các nhiệm vụ ,đạt được những mục tiêu tương ứng của môn học này . Trong chương trình Đạo đức lớp 2 nói riêng và các lớp 1, 3, 4, 5 nói chung được xây dựng theo chủ đề học tập khác nhau. Mỗi chủ đề là các bài Đạo đức khác nhau nhưng bài nào cũng được phân làm 2 tiết, mỗi tiết ứng với các phương pháp đặc trưng khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu học hỏi, thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy có các nhóm phương pháp chính sau: * Nhóm phương pháp hình thành ý thức bao gồm: Kể chuyện; Quan sát; Đàm thoại; Thảo luận nhóm và phân tích tình huống Kể chuyện: Là phương pháp dùng lời kể kết hợp với sử dụng điệu bộ, cử chỉ hoặc tranh minh hoạ, con rối, ... để thuật lại nội dung một chuyện nào đó. Trong thời giờ Đạo đức, đó là các truyện kể về cách ứng xử của nhân vật trong một tình huống có vấn đề vê đạo đức. Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học sinh lớp 2, giúp cho bài học Đạo đức, đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, sống động, cùng với phương pháp kể chuyện thì thảo luận nhóm là phương pháp sử dụng rộng rãi. Còn Đàm thoại là phương pháp tổ chức trò chuyện giữa thầy - trò hoặc trò - trò về một chủ đề đạo đức trên một hệ thống câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh đi đến chuẩn mực đạo đức các em cần nắm và thực hiện. Phương pháp đàm thoại giúp học sinh phát huy vốn kinh nghiệm đạo đức đã có; chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm của thầy, của bạn, tiếp thu bài học một cách tích cực, chủ động; tránh được xu hướng thuyết lý khô khan, áp đặt, nặng nề. Cùng với phương pháp kể chuyện đàm thoại, phương pháp thảo luận phân tích tình huống nhằm giúp học sinh tham gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình học tập tạo điều kiện cho các em có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến, hay để giải quyết một vấn đề đạo đức nào đó. Ví dụ: Ở bài 11: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" - Tiết 1. + Hoạt động 1: Giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại + Hoạt động 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Ở bài 2 "Biết nhận lỗi và sửa lỗi" - Tiết 1. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyêụn, thảo luận nhóm. Nhóm phương pháp luyện tập, rèn luyện hành vi thói quen và cách ứng xử. Bao gồm: Tập luyện thực hành; ứng xử tình huống; động não; Tổ chức trò chơi; Đóng vai. Luyện tập thực hành là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành luyện tập theo mẫu hành vi đã xác định ở tiết 1. Đồng thời để củng cố lại kiến thức đã học. Các em thực hành luyện tập làm các bài tập giải quyết tình huống trong vở bài tập đạo đức. Cùng với phương pháp luyện tập thực hành là phương pháp đóng vai. Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử và bày tỏ thái độ trong tình huống cụ thể. Đóng vai gây chú ý và hứng thú cho các em. Qua đó tạo điều kiện nảy sinh óc sáng tạo của học sinh đồng thời khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức. Qua đóng vai có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Còn phương pháp Tổ chức trò chơi là phương pháp giúp học sinh phát hiện và chiếm lĩnh những nội dung học tập thông qua việc chơi một trò chơi nào đó. Qua trò chơi các em không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất hành vi đạo đức. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong tiết đạo đức như là một phương pháp dạy học quan trọng để giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh. Nội dung trò chơi sẽ minh hoạ một cách sinh động cho các mẫu hành vi đạo đức. Nhờ vậy, những mẫu hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở học sinh, giúp các em ghi rõ ràng và lâu bền. Qua trò chơi, học sinh được tập luyện những kỹ năng, những thao tác hành vi đạo đức, được thể hiện nãy sẽ hình thành được ở học sinh niềm tin về những chuẩn mực hành vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. - Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng biết lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. - Bằng trò chơi, việc luyện tập thực hành về các hành vi đạo đức được tiến hành một cách nhẹ nhàng sinh động, không gây khô khan nhàn chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm đồng thời giải toả được mệt mỏi căng thẳng. Cùng với phương pháp luyện tập thực hành, phương pháp đóng vai, tổ chức trò chơi, thì Động não là phương pháp giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nẩy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Ví dụ: Ở bài 11: "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại: - Tiết 1. + Hoạt động 1: Giáo viên sử dụng phương pháp đóng vai, động não. + Hoạt động 2: Sử dụng phương pháp tập luyện thực hành. Thảo luận nhóm là phương pháp tổ chức cho học sinh trao đổi với nhau theo nhóm nhỏ về những vấn đề liên quan đến bài học đạo đức để đưa ra ý kiến chung của nhóm về giải quyết vấn đề đạo đức nêu ra. Tóm lại: Trong các phương pháp trên, không có phương pháp nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng biệt, song nó sẽ không có hiệu quả khi người dạy không biết sử dụng đúng lúc, đúng mục đích trong một tiết dạy. Hơn nữa tuỳ thuộc vào tiết 1 hay tiết 2 của một bài đạo đức mà người giáo viên sử dụng phương pháp cho phù hợp. Tiết học có đạt được kết quả cao hay không nhờ khả năng kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học với nhau, lấy phương pháp này bổ trợ cho phương pháp kia. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐẠO ĐỨC LỚP 2: 1. Biện pháp 1: Lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với bài học: Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, do vậy người giáo viên phải có lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp, cho phù hợp với đặc trưng của các môn học đặc biệt là môn Đạo đức. Mỗi phương pháp cần phải sử dụng đúng thời điểm của tiết dạy. Ví dụ: Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" (Tiết dạy minh hoạ - Tiết 1). - Hoạt động 1: Quan sát mẫu hành vi. + Bước 1: Cho học sinh đóng vai diễn lại kịch bản có mẫu hành vi đã chuẩn bị. + Bước 2: Yêu cầu học sinh đàm thoại để nhận xét về cuộc nói chuyện điện thoại vừa xem. + Hoạt động 2: Thảo luận nhóm: + Bước 1: Học sinh được thảo luận ghi việc nên làm và không nên làm khi gọi điện thoại. + Học sinh trình bày nội dung được thảo luận. + Hoạt động 3: Liên hệ thực tế: Trong hoạt động này học sinh được luyện tập theo mẫu hành vi chuẩn. Hoặc khi dạy bài 2 "Biết nhận lỗi và sửa lỗi". Các phương pháp cần xác định là: Kể chuyện, nêu gương, thảo luận nhóm, động não, Tập luyện theo mẫu hành vi, đóng vai, tổ chức trò chơi. Phương pháp kể chuyện được sử dụng trong hoạt động 1 - Tiết 1; Giáo viên kể chuyện Cái bình hoa với kết thúc để mở. Sau đó chia nhóm, giao việc để các nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi phân tích truyện xác định ý nghĩa của hành vi nhận và sửa lỗi. Sang hoạt động 2 giáo viên tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và trả lời câu hỏi phân tích truyện xác định ý nghĩa của hành vi nhận và sửa lỗi. Sang hoạt động 2 giáo viên tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và bày tỏ ý kiến, thái độ của mình về những hành vi đúng, sai. Ở tiết 2 - Trong hoạt động 1 học sinh được đóng vai theo tình huống, học sinh lựa chọn và thực hành hành vi nhận và sửa lỗi, Hoạt động 3 giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Ghép đôi, qua trò chơi học sinh biết cách ứng xử các tình huống nhận và sửa lỗi. 2. Biện pháp 2: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học: Để thực hiện đổi mới phương pháp, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất quan trọng với tất cả các môn học. Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự thành công của một tiết dạy. Vì vậy trước mỗi tiết dạy người giáo viên cần phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của mình. Mỗi khi thiết kế bài học giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung tính chất, hình thức của bài học để lựa chọn thiết bị dạy học cho phù hợp, dễ sử dụng. Hiện nay trang thiết bị và đồ dùng dạy học môn Đạo đức chỉ có tranh ảnh nên giáo viên cần sử dụng các tranh ảnh trong Vở bài tập Đạo đức cho học sinh quan sát một cách triệt để. Ngoài ra giáo viên có thể sử dụng các đồ dùng tự làm hoặc phải sưu tầm thêm, chuẩn bị trước mỗi tiết học những đồ dùng cần thiết cho từng hoạt động của từng bài. Ví dụ: Khi dạy bài 7 "Giữ gìn trường lớp sạch đẹp", giáo viên cần sử dụng những đồ dùng như: + Một ít bánh kẹo, một hộp giấy (cho hoạt động 1 - Tiết 1). + Bộ tranh phóng to gồm 5 chiếc (cho hoạt động 2 - Tiết 1). + Một số dụng cụ như sọt rác, chổi, phấn (cho hoạt động 1 - Tiết 2). + Phiếu ghi câu hỏi (cho hoạt động 3 - Tiết 2). Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" giáo viên cần chuẩn bị một số đồ dùng như: Bộ đồ chơi điện thoại hoặc là điện thoại thật loại để bàn. Sử dụng trong tiểu phẩm ở hoạt động 1 - Tiết 1 và hoạt động 3 tiết 1. 3. Biện pháp 3: Dạy đạo đức cho học sinh thông qua các môn học khác. Dạy môn Đạo đức qua các môn học khác là hình thức giáo dục rất quan trọng. Dạy đạo đức cho học sinh không chỉ bó hẹp ở một môn học Đạo đức mà có thể nói rằng dạy đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi và tất cả các môn học. Ví dụ: Trong môn Tiếng việt học sinh được học các bài tập đọc với chủ điểm của từng tuần, từng tháng, học sinh biết những tấm gương tốt, khi học đạo đức các em có thể liên hệ đến. Cụ thể trong phân môn Tập đọc học sinh đã học bài Điện thoại và học Tập làm văn gọi điện, học sinh bước đầu biết cách gọi và nhận điện thoại. Học sinh gặp thuận lợi hơn khi học bài đạo đức Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại. Ở môn tự nhiên và xã hội, học sinh được nhận biết các loài vật sống dưới nước, trên cạn, và nêu được ích lợi của chúng. Khi học đạo đức bài 14: Bảo vệ loài vật có ích học sinh sẽ liên hệ đến một cách dễ dàng hơn. 4. Biện pháp 4: Dựa vào các hoạt động ngoại khoá để xây dựng cho học sinh các kiến thức chuẩn mực, và hành vi đạo đức tốt. Ví dụ: Thông qua các tổ chức Đoàn Đội, các buổi sinh hoạt đội, sinh hoạt sao nhi đồng, thông qua phong trào "Đọc và làm theo báo Đội" Thông qu
Tài liệu đính kèm: