5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Trong năm học này tôi được phân công dạy lớp 5, trong quá trình giảng dạy,
tôi rất băn khoăn và lo lắng một điều là làm thế nào để giúp học sinh học tốt
phân môn Tập làm văn – một phân môn quan trọng trong môn Tiếng việt, đặc
biệt là giúp học sinh có thể làm tốt bài văn tả cảnh trong khi thực trạng việc học
phân môn này của học sinh có rất nhiều điều cần suy nghĩ : Câu văn chưa diễn
đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa. Cảnh tả thì sơ sài và có nhiều lỗi lặp ý,
chưa làm nổi bật nội dung cần miêu tả
Để định hướng cho học sinh phát triển khả năng diễn đạt cần phải định
hướng cho học sinh học tư duy ngôn ngữ để phát triển, vì ngôn ngữ là sản phẩm
cuối cùng của tư duy. Có tư duy ngôn ngữ thì học sinh mới có thể nói viết trọn
vẹn câu ý được, ngôn ngữ phải là cái đích để đánh giá học sinh chứ không phải
những điểm số một cách chung chung. Vì vậy vấn đề căn bản nhất là giúp học
sinh phát triển tư duy ngôn ngữ để học sinh có thể biểu đạt thành câu trọn ý
được.2
Với tầm quan trọng và thực tế trên, để khắc phục những hạn chế trong quá
trình làm văn, đồng thời giúp các em tiến bộ hơn khi viết văn có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tôi tìm ra một số biện pháp rèn cho học sinh những
mặt còn hạn chế của lớp mình và tôi quyết định chọn đề tài “ Giúp học sinh lớp
5 học tốt phân môn tập làm văn” nhằm đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.
Trong sáng kiến này, tôi mạnh dạn đưa ra điểm mới là chú ý rèn kĩ năng
miêu tả cho học sinh. Từ đó học sinh mới có khả năng diễn đạt tốt , sáng tạo
trong làm văn, nói và viết.
c các môn học khác: Để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh, chỉ nội dung, thời gian dành cho những tiết Tập làm văn tả cảnh không là chưa đủ, mà nó đòi hỏi cả một quá trình dạy học, là sự tích hợp của tất cả các môn học khác, nó hỗ trợ cho nhau và không thể thiếu. Đặc biệt phải kể đến phân môn tập đọc và luyện từ và câu sẽ giúp học sinh sở hữu vốn từ ngữ rất phong phú và đa dạng. + Ví dụ : Ngay trong tuần học đầu tiên của lớp 5 với bài tập đọc: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”. Học sinh tích luỹ cho mình rất nhiều kiến thức có liên quan đến bài văn tả cảnh, nhất là với bài “tả cảnh cánh đồng, nương rẫy” Điều đó thể hiện ở chỗ, học sinh được biết thêm rất nhiều các từ , các hình ảnh miêu tả như : để tả màu vàng, học sinh có thể dùng từ vàng xọng, vàng xuộm, vàng hoe, vàng ối sao cho phù hợp với đối tượng miêu tả trong bài văn của mình. Cũng với bài tập đọc trên, học sinh còn tìm được ở đó cấu tạo của bài văn tả cảnh gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài . * Vì vậy khi dạy bài Tập đọc trên, trong phần tìm hiểu bài: Ở câu 2: Hãy chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm giác gì ? Trả lời được câu hỏi này tức là học sinh đã nắm được các từ chỉ màu vàng và hiểu được nghĩa của nó khi sử dụng trong bài văn tả cảnh. Vì vậy, tôi hướng dẫn kĩ hơn ở câu hỏi này. Cụ thể như sau: - Bước 1: Đọc từ và lời giải (vàng xọng – màu vàng gợi cảm giác như có nước) - Bước 2: Phân tích nghĩa của từ: +Giúp học sinh hiểu: Tại sao “vàng xọng là màu vàng gợi cảm giác như có nước”bằng các câu hỏi phụ: Từ vàng xọng trong bài văn miêu tả màu vàng của sự vật nào?(Màu vàng của bụi mía) Em nào đã từng được quan sát bụi mía, theo em từ vàng xọng tả cây mía ở thời kì nào (thời kì mới trồng, đang phát triển hay đã đến độ thu hoạch) ?(Tả cây mía khi đã đến độ thu hoạch. Khi đó thân cây có màu vàng bóng, đó là dấu hiệu để chúng ta biết mía đã có nhiều nước ngọt thơm. Từ vàng xọng gợi cảm giác như có nước là vì vậy) Sau đó tôi cho học sinh trực tiếp quan sát một khúc mía có màu vàng xọng mà tôi đã chuẩn bị. - Với các từ ‘vàng xuộm, vàng lịm, vàng tươi, vàng ối..”hướng dẫn tương tự. - Các bài mở rộng vốn từ trong phân môn luyện từ và câu là món ăn chính giúp học sinh có nguồn vốn từ dồi dào và sinh động. 5 Ngoài ra, nó còn giúp học sinh biết cách liên kết các câu trong bài bằng nhiều hình thức như: lặp từ ngữ, thay thế từ, dùng từ nối... nhằm tạo ra cho học sinh một bài văn trôi chảy, không lủng củng, không rườm rà Cũng chính từ phân môn luyện từ và câu, Học sinh còn được thực hành viết những đoạn văn tả cảnh có liên quan như: Bài “Luyện tập về từ đồng nghĩa” tuần 3/TV 5 – Tập 1/32, sau khi học sinh nắm được như thế nào về từ đồng nghĩa học sinh được vận dụng kiến thức vừa học để viết đoạn văn miêu tả màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích dựa vào bài tập đọc “Sắc màu em yêu” . + Hay trong bài “Mở rộng vốn từ : Thiên nhiên”– tuần 9/Trang 87, ngoài mục đích giúp học sinh nắm được vốn từ về thiên nhiên, tôi còn xoáy sâu vào cách sử dụng hình ảnh so sánh, nhân hoá trong bài từ đó học sinh của tôi cũng vận dụng một cách sáng tạo vào bài văn tả cảnh của mình . - Chính vì sự gắn bó chặt chẽ nói trên mà trong quá trình xây dựng kế hoạch giảng dạy ở mỗi bài, mỗi phân môn, tôi thường chú ý tích hợp giữa các bài, các phân môn với nhau nhằm tận dụng triệt để sự gắn bó giữa các môn học này trong dạy học tập làm văn tả cảnh. b.1.4. Khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh: - Qua việc kiểm tra thực tế với 2 nhóm đối tượng học sinh lớp tôi, tôi thấy rằng: Cùng viết một bài văn tả cảnh, một nhóm học sinh đã được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả và một nhóm học sinh không được trực tiếp quan sát đối tượng đó thì chất lượng bài viết, cách miêu tả của 2 bài văn có sự khác biệt rõ rệt. Với bài của học sinh được quan sát đối tượng miêu tả , cách dùng hình ảnh của các em rất phong phú, đa dạng nhưng không làm mất đi nét riêng, chân thực của đối tượng miêu tả. Còn với bài văn của học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, đôi khi cách dùng hình ảnh của các em mang tính chiếu lệ, không đúng với thực tế vốn có của nó + Ví dụ: Có một em khi miêu tả cảnh buổi sáng trong công viên, em viết : “Trong công viên, vào buổi sáng xe cộ đi lại tấp nập” - Vì thế tôi cho rằng muốn học sinh viết được bài văn tả cảnh hay, điều thứ nhất không kém phần quan trọng đó là việc học sinh được quan sát đối tượng miêu tả trực tiếp bằng tất cả các giác quan. Cho nên trong phần hướng dẫn xác định yêu cầu, tôi luôn dẫn dắt để khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh phù hợp với điều kiện quan sát của các em. + Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết một bài văn tả cảnh sông nước, tôi hỏi học sinh đã đươc ngắm cảnh sông nước chưa ? ở đâu ? Em quan sát vào những thời gian nào? Có kỉ niệm nào gắn bó giữa em với cảnh đó không ? ( Do khu vực các em ở không có cảnh sông nước). Từ đó giúp các em tự nhớ lại những gì mà mình đã quan sát được về cảnh sông nước khi miêu tả + Hay với đề bài tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy): Dựa vào thực tế địa phương nơi trường tôi đóng, các em có điều kiện được đi công viên, trên đường phố hoặc đa số nhà các em có vườn cây nên vì vậy tôi đã hướng học sinh chọn đề tài phù hợp với điều kiện quan sát của mình đó là vườn cây, công viên, đường phố – những cảnh gần gũi , quen thuộc và gắn bó với các em. 6 b.1.5. Thường xuyên động viên, khích lệ, sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng cũng như đôn đốc việc học của học sinh: - Như chúng ta đã biết, tập làm văn là một phân môn không mấy hứng thú của cả thầy lẫn trò. Đối với thầy, muốn dạy tốt tiết học này cần có kiến thức, kĩ năng, có sự chuẩn bị công phu và tốn nhiều thời gian. Đối với trò, đó là áp lực về tư duy và khả năng diễn đạt. Vậy muốn cho tiết học không nặng nề, nhàm chán, tạo không khí thoải mái khi học, thì những lời động viên, khích lệ của giáo viên là không thể thiếu. Nó là liều thuốc bổ tinh thần quý giá với các em. Chính vì vậy, trong quá trình dạy tập làm văn, tôi thường xuyên động viên, khen ngợi các em. - Bên cạnh việc động viên khen ngợi, dựa vào đặc điểm tâm lí hiếu thắng của các em, tôi còn sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng trong dạy – học tập làm văn và cảm thấy nó đem lại kết quả rất tốt. + Ví dụ: Khi làm bài tả cảnh kiểm tra viết cũng gần tới ngày Đại hội Liên đội của trường, mỗi lớp được cử 5 em đi dự, trong số đó có một số em sàn sàn nhau không biết chọn em nào, tôi đã khuyến khích các em, nếu em nào làm văn được điểm cao sẽ được đi dự, và kết quả thật bất ngờ, mặc dù không có nhiều bài xuất sắc, nhưng tôi thấy ở bài văn của tất cả các em đều có sự cố gắng và tiến bộ hơn hẳn so với trước. Tiếp tục biện pháp trên, trong đợt thi giữa kì 1, trong khi ôn tập chuẩn bị thi, tôi và tập thể lớp đã đề ra chỉ tiêu là : nếu bạn nào làm văn được điểm tốt trong đợt thi này sẽ được nhận phần thưởng của cả lớp. Và không ngoài tầm dự đoán của tôi, kết quả đợt kiểm tra của các em đạt chất lượng khá cao. Điều đó chứng tỏ rằng, việc động viên khen ngợi hay dùng hình thức thi đua khen thưởng có ý nghĩa quan trọng đối trong dạy học nói chung và dạy tập làm văn nói riêng. Nó kích thích hứng thú , tạo niềm say mê học tập ở các em . b.1.6. Kết hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội. Để đảm bảo chất lượng học tập và giáo dục toàn diện cho học sinh việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức quan trọng. Trong đó chất lượng bài văn tả cảnh của học sinh cũng cần rất nhiều đến việc quan tâm của các tập thể trên. - Đối với gia đình, cha mẹ luôn là nguồn an ủi động viên các em trong quá trình học tập, là nơi tạo điều kiện về vật chất cũng như thời gian cho các em. Việc cho các em đi nghỉ mát , tắm biển, tham quan những khu du lịch, danh lam, thắng cảnh tạo cơ hội cho các em tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả trong bài văn của các em, giúp các em được mở mang kiến thức và hứng khởi khi học tập. Cha mẹ còn là người thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc học và chuẩn bị bài ở nhà của các em. - Đối với nhà trường, đặc biệt là Liên đội, không chỉ là nơi các em được trau dồi kiến thức Đội mà việc tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, đi tham quan, du lịch về nguồn cũng góp phần tạo nên thành công trong học tập ở các em. - Đối với thư viện trường, việc mua những quyển sách báo, tài liệu tham khảo phù hợp giúp các em có thêm cơ hội để học hỏi, trau dồi kiến thức, kĩ năng 7 (Đặc biệt là với những em có hoàn cảnh khó khăn, không có tiền để mua chúng). Việc tổ chức các hội thi cũng tạo cho các em một sân chơi bổ ích b.2. Biện pháp tổ chức giảng dạy, hướng dẫn cho học sinh học văn tả cảnh: Đối với học sinh tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngôn ngữ của các em còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt là các em chưa biết cách trau chuốt, gọt giũa lời văn, câu văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà đa số các em “nghĩ sao thì viết vậy”; cộng với việc ít đọc sách báo, ít tham khảo các bài văn hay, câu chuyện hay, bổ ích ở sách báo, làm cho các em gặp nhiều khó khăn khi làm bài văn miêu tả. Cho nên việc trước tiên là giáo viên cần kết hợp với các phân môn trong môn Tiếng Việt – nhất là phân môn luyện từ và câu - cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, uốn nắn cho các em cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự nhiên” thành “ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là hiệu quả của những bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này. Đối với phân môn tập làm văn ở lớp 5, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là: - Tìm hiểu cấu tạo của bài văn. - Phân tích các văn bản mẫu. - Quan sát, lập dàn ý chi tiết. - Viết thành bài văn hoàn chỉnh. - Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài. Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên và học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên. b.2.1. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh: - Cho học sinh đọc văn bản mẫu ở sách giáo khoa, hướng dẫn học sinh xác định phần mở bài, thân bài, kết bài. - Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh. b.2.2. Phân tích các văn bản mẫu: Ở bước này, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích để hiểu và thấy được nghệ thuật quan sát và miêu tả, đồng thời thấy được cách chọn lọc chi tiết, cách sử dụng những hình ảnh đẹp trong bài văn miêu tả. Ví dụ: 1/ Bài: “Luyện tập tả cảnh”- Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14. - Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”. - Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi: + Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ? + Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào ? + Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả. * Đối với bài này, tôi cho các em xem 1 vài đoạn video cảnh mùa thu, nêu vài đặc điểm tiêu biểu của mùa thu vì ở địa phương tôi chỉ đặc trưng 2 mùa mưa và nắng. 8 - Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn. 2/ Bài: “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21. - Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và “Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn. - Cách tiến hành bài này là: + Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn. + Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát. + Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài văn ? Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó. - Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi những em tìm được những hình ảnh đẹp và giải thích được lí do vì sao mình thích hình ảnh đó ( yêu cầu không bắt buộc ). * Tôi lưu ý HS : Sự khác biệt về thời gian ( sáng, trưa, chiều, tối ... ) cũng làm thay đổi cảnh vật dù là trực tiếp hay gián tiếp. + Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và hướng cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả. b.2.3. Quan sát, lập dàn ý chi tiết: a/ Quan sát: Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật, sự vật hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ rằng với cảnh vật quen thuộc hằng ngày thì không cần phải quan sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận biết hời hợt, chung chung, chưa toàn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt, bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính xác. Quan sát trực tiếp còn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết, tránh được sự tẻ nhạt. Giáo viên cần rèn kĩ năng quan sát cho HS: + Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi,để nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm, nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi vị + Quan sát nhằm nhận ra những nét độc đáo đặc biệt của đối tượng chứ không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật. + Trong khi quan sát còn luôn gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với cuộc sống cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên tưởng so sánh, tưởng tượng , hồi tưởngcủa từng cá nhân. + Từ việc quan sát HS tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh động những điều quan sát được . + Hướng dẫn HS lựa chọn trình tự quan sát: * Trình tự không gian: quan sát toàn bộ đến quan sát từng phần, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới,ngoài vào trong hoặc ngược lại. 9 * Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân hứng thú thì quan sát trước, các phần khác quan sát sau. Phần trọng tâm bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn. +Tổ chức quan sát và tìm ý: * Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người. * HS phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính. * Sự quan sát của HS phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ thống câu hỏi gợi ý. Ví dụ: Trong bài “ Tả cơn mưa”, để phát huy sự quan sát và khả năng sáng tạo của HS, tôi yêu cầu các em tả cơn mưa đang diễn ra trên sân trường qua cửa sổ lớp học. Kết quả ngoài mong đợi, các em đều tả được cơn mưa với những nét chung nhưng mỗi em đều mang sắc thái biểu cảm riêng, kể cả những em vốn rất ngại môn Tập làm văn cũng có được bài văn cho riêng mình dù lời văn chưa bay bổng nhưng dùng từ chính xác, trọng tâm nổi bật, đặc biệt có cảm xúc và quan trọng hơn là các em có sự tự tin như thấy được “ làm văn không khó”. b/ Lập dàn ý: - Khi vào học bài mới, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài. + Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ? - Giáo viên hướng dẫn xác định trong tâm để tập trung sự chú ý của HS, tránh tình trạng quan sát một cách mờ nhạt, chung chung dẫn đến miêu tả không nổi bật trọng tâm bài. - Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh, video minh họa cho học sinh quan sát. - Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được. Ví dụ: * Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ). - Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý: + Có thể tả ngôi trường vào một thời điểm nhất định ( sáng – trưa - chiều; mùa đông - mùa hè); Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo thời gian ( Từ sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè). + Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào tronghoặc ngược lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngoài + Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn tả cảnh sinh hoạt. Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài. - Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường. - Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. 10 - Phần mở bài cần giới thiệu bao quát: + Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng nào? + Đặc điểm nổi bật của ngôi trường. - Phần thân bài gồm các ý: + Tả từng phần của cảnh trường: Cổng trường ( cổng như thế nào ? bản tên trường ra sao ? ). Sân trường ( sân trường ra sao ? cột cờ, cây cối như thế nào? ). Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?...). Trường em có điểm gì nổi bật ? - Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường. Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý chính. b.2.4. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn: Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “ Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn”, “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một phần của thân bài. a/ Phần mở bài: Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng một câu nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không nên gò bó, áp đặt. Ví dụ: Đề bài: “..Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con sông, một con suối hay một hồ nước ) ( TV 5 tập 1/62) - Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Làng em có một con suối rất đẹp”. - Có em mở bài rất sinh động: “Con suối chảy qua làng em, suối chảy ven theo chân đồi, men theo cánh đồng lúa xanh mượt. Nhìn từ xa, con suối như một con trăn uốn mình trên tấm tấm thảm màu xanh biếc của cánh đồng làng. Con suối này gắn liền với tuổi thơ của chúng em và con suối đã trở nên thân thiết”. Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài văn hay, có tính nghệ thuật. b/ Phần thân bài: - Một số em học sinh chưa biết cách sử dụng từ ngữ cho đúng trong văn viết cũng như văn nói. Ví dụ khi tả về hình ảnh của những ô cửa kính lớp học, các em hay viết: “Các lớp học có những ô cửa kính sáng long lanh”; Hoặc khi tả hình dáng một người thân trong gia đình, các em viết: “Bố em có dáng người cao chót vót” 11 - Đôi khi các em hay viết “ rập khuôn, máy móc” theo những câu văn, đoạn văn mà giáo viên sử dụng để hướng dẫn mẫu. Ví dụ khi hướng dẫn cách tả về hình dáng của người, tôi đưa ra ví dụ mẫu: + “ Chị em có hàm răng trắng đều như hạt bắp”. + “ Đôi mắt của cu Tí tròn như hai hòn bi ve”. Đến khi làm bài, có em viết: “ Em trai của em năm nay vừa tròn một tuổi. Mắt của nó tròn như hai hòn bi ve, răng của nó trắng đều như hạt bắp”. Hoặc “Đôi mắt của bà em tròn như hai hòn bi ve”(!) - Bên cạnh, giáo viên cần hướng cho học sinh tả một cách chân thực, không “bắt chước” theo những hình ảnh trong các bài văn mẫu vì vậy, trong các tiết học, giáo viên cần tăng cường cung cấp vốn từ ngữ cho các em, hướng cho các em biết cách sử dụng từ ngữ cho phù hợp với đối tượng miêu tả, phù hợp với văn cảnh cụ thể và phù hợp với thực tế cuộc sống. - Hoặc chỉ với 1 một chi tiết, yêu cầu học sinh tả lại theo ý của mình, dùng lời văn của mình, từ đó giúp các em chỉnh sửa để có câu văn sinh động, giàu cảm xúc và quan trọng là ý tả có cái riêng, cái mới, thu hút nguời đọc Ví dụ: “ vườn cây vui vẻ lao xao trong gió sớm.” Hay “ vườn cây im
Tài liệu đính kèm: