Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học

Sử dụng bản đồ, lược đồ trong dạy học lịch sử

 Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng trong dạy học lịch sử. nó không chỉ góp phần quan trọng tái hiện lại cho học sinh những hình ảnh lịch sử chân thực nhất mà còn khắc phục được tình trạng nhầm lẫn lịch sử của học sinh. Trên bản đồ lịch sử, các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời điểm, địa điểm cùng một số yếu tố nhất định. Ví dụ: Khi dạy bài 17 “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ” ( lớp 5) nếu như chỉ phương pháp dùng lời, giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp cho là "Một pháo đài kiên cố không thể công phá". Rõ ràng khi chọn vị trí chiến lược cho kế hoạch của mình. Na-va đã nghĩ đến chiến dịch Điện Biên Phủ với địa hình cánh đồng Mường Thanh có núi cao bao bọc, hiểm trở sẽ gây khó khăn cho ta khi tiến công, hơn nữa đây còn là một vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc Bộ. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông Dương 1953-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 cùng với một số hình ảnh khác thì học sinh sẽ có nhiều biểu tượng khá rõ về "pháo đài kiên cố" là "Xương sống kế hoạch Na-va".

 Khi kết hợp sử dụng những biện pháp như vậy, giáo viên đã góp phần bồi dưỡng kiến thức lịch sử cho học sinh.

 

docx 23 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 2775Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khối lớp 4, 5 trường Tiểu học Lê Lợi, bản thân tôi nhận thấy: Học sinh đa số chưa nắm chắc được kiến thức lịch sử phổ thông cơ bản nhất. Nhớ sai, nhầm lẫn ngày – tháng – năm của các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử gắn với các sự kiện đó, là hiện tượng khá phổ biến.
2.3. Mặt mạnh – mặt yếu
 Môn lịch sử giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt đặc biệt giáo dục và bồi dưỡng cho các em nhân cách và lòng yêu quê hương, yêu đất nước. Vì vậy giáo viên phải khơi dậy và truyền lửa cho học sinh đảm bảo sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc và làm nổi bật được những đặc trưng riêng của phân môn lịch sử mà những môn học khác không có được. Tuy nhiên để làm được điều đó là một điều không hề dễ dàng vì đây là một môn học khó do phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện lịch sử, các sự kiện diễn ra đã lâu.
2.4. Các nguyên nhân và yếu tố tác động
 Môn lịch sử là môn học vô cùng quan trọng đối với học sinh, tuy nhiên có nhiều yếu tố dẫn đến tình trạng kém chất lượng về môn học này và theo tôi những nguyên nhân sau là chủ yếu:
 Thứ nhất: Về thời lượng 1 tiết/ tuần thì không đủ để giáo viên truyền thụ sâu và học sinh hiểu sâu sắc các nội dung bài học. Tài liệu tham khảo lịch sử nhiều nhưng lại trùng lặp nội dung kiến thức, không thống nhất số liệu gây khó khăn cho cả giáo viên và học sinh. Kiến thức trong sách giáo khoa nhiều nội dung, sự kiệnDo vậy học sinh dễ chán học, không nhớ, lẫn lộn các sự kiện và nhân vật và điều quan trọng là không tạo ra được chút cảm xúc nào trước những trang sử của dân tộc.
 Thứ hai: Nguyên nhân khiến học sinh quay lưng lại với môn Lịch sử là từ phía giáo viên, phương pháp giảng dạy, môi trường học lịch sử.Phần lớn phương pháp giảng dạy của giáo viên vẫn là trình bày miệng, thầy giảng trò nghe. Các thầy cô giáo ít sử dụng đồ dùng dạy học trong quá trình giảng dạy. Xuất phát từ chỗ xem nhẹ môn Lịch sử nên các thầy cô giáo khi dạy môn này cũng không trú trọng như dạy môn Toán và Tiếng Việt, dẫn tới tình trạng là khi dạy Lịch sử giáo viên không đầu tư thời gian đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng một cách rập khuôn. Môi trường học lịch sử cho học sinh khô khan là một cản trở trong việc lôi cuốn học sinh yêu môn Lịch sử. Bên cạnh đó đồ dùng dạy học Lịch sử ở các trường Tiểu học còn hạn chế. Giáo viên Tiểu học còn lúng túng trong việc sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Học sinh chủ yếu chỉ “ học chay”.
 Từ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giờ dạy. không gây hứng thú cho học sinh và đặc biệt là việc tư duy trong học tập của các em bị hạn chế. Kết quả khảo sát trước khi thực nghiệm ở hai lớp thuộc khối 4,5 như sau:
Cuối năm học 2015-2016
Lớp 4A (28HS)
Lớp 5A (30HS)
HTTốt
HTKhá
HT
CHT
HTTốt
HTKhá
HT
CHT
4
7
13
4
3
7
16
4
	 Với lí do trên tôi quyết định nghiên cứu đề tài “ Giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học” Đây là một việc làm thiết thực mà mỗi giáo viên đứng lớp như chúng ta băn khoăn, suy nghĩ nên dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ dạy trên lớp nói chung và dạy Lịch sử cho học sinh ở trường Tiểu học nói riêng. Để học sinh phát huy được tính tích cực trong học Lịch sử nhằm đưa chất lượng giáo dục có chất lượng và hiệu quả ngày một nâng cao, tôi mạnh dạn trình bày một số biện pháp sau: 
Biện pháp thực hiện
3.1. Mục tiểu của biện pháp
Qua tìm hiểu thực trạng tôi đã nghiên cứu và tìm tòi và áp dụng 4 biện pháp giúp học sinh tự tin học tập tốt môn lịch sử từ đó bồi dưỡng nhân cách và bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước cho học sinh và tạo tiền đề cho các em học tốt các môn học khác. Qua việc dạy và việc học ở trường, tôi khảo sát tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh không thích học lịch sử. Từ đó tôi đưa ra biện pháp khắc phục trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử cho học sinh. Đồng thời mong muốn được trao đổi những kinh nghiệm này với các bạn đồng nghiệp để cùng làm giàu thêm những kiến thức, kỹ năng của giáo viên để đưa chất lượng giáo dục ngày một nâng cao.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp 
Như chúng ta đã biết niềm say mê học hỏi và hứng thú học tập của học sinh được tạo ra không chỉ nhờ những giờ học được giáo viên tổ chức một cách hấp dẫn và khác thường. Bí quyết làm nảy sinh hứng thú và niềm say mê học tập của học sinh là phải làm cho các em đạt được thành công. Chỉ có niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thực sự của ham muốn học hỏi và hiểu biết.
Trong giờ lịch sử giáo viên cần giúp cho học sinh cho mỗi học sinh cả những học sinh yếu cũng có cơ hội được rèn luyện mình, để các em có niềm tin vào bản thân, tạo đà cho những cố gắng tiếp theo. Nếu không đạt được thành công, học sinh sẽ sợ những giờ học này. Để làm cho mọi học sinh đều có cảm giác ít nhiều thành công trong giờ học theo tôi cần thực hiện các biện pháp sau.
* Biện pháp 1: Sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử 
	Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là một trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư tưởng cho học sinh. Tuy nhiên để thành công chúng ta cần chú ý những điểm sau:
Thứ nhất: Câu hỏi bài tập phải vừa sức, đúng với từng đối tượng. Không thể đặt câu hỏi quá khó, vượt khả năng tư duy của học sinh như “đánh giá, phân tích, nhận xét” và cũng không quá đơn giản như “ai lãnh đạo, chiến thắng nào, bao giờ?....” cần hết sức tránh tình trạng giáo viên chưa giảng, chưa trình bày sự việc cụ thể, học sinh chưa có hiểu biết nào về sự kiện lịch sử sẽ học mà đã đặt câu hỏi cho học sinh. Cách đặt câu hỏi như vậy trái với đặc trưng của bộ môn, buộc học sinh phải nhìn vào sách giáo khoa để trả lời chứ hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi mà giáo viên vừa nêu ra.
Thứ hai: Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi. Sau mỗi chương cần có câu hỏi ôn tập. Các câu hỏi của bài phải tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh có mối quan hệ logic chặt chẽ, làm nổi bật chủ đề nội dung, tư tưởng của bài.
Thứ ba: Cần triệt để khai thác nội dung các câu hỏi trong sách giáo khoa để lựa chọn nội dung phương pháp thích hợp cho từng bài cụ thể. Sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa kết hợp với câu hỏi được sáng tạo trong quá trình soạn giảng của giáo viên phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy, rèn luyện các kỹ năng học tập của các em. 
	Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, trong dạy học lịch sử ở Tiểu học thông thường cần chú ý các phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi sau:
	+ Nêu câu hỏi vào đầu giờ học
	+ Vào đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra kiến thức bài cũ. Trước khi cung cấp kiến thức bài học cho học sinh, giáo viên nên nêu ngay câu hỏi định hướng nhận thức cho học sinh và nên lồng ghép vào phần giới thiệu bài. Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời nó phải huy động kiến thức cơ bản của từng bài đã học. Nêu câu hỏi vào đầu giờ học có 2 tác dụng lớn:
Thứ nhất là xác định rõ nhiệm vụ nhận thức của học sinh trong giờ học. Thứ hai là hướng học sinh vào những kiến thức trọng tâm của bài. Đương nhiên khi đặt câu hỏi, không nên yêu cầu học sinh trả lời ngay, mà chỉ sau khi giáo viên đã cung cấp cho các em đầy đủ sự kiện các em mới trả lời được.
	Ví dụ: Khi dạy bài 15 “Nước ta cuối thời Trần” (lớp 4) GV nêu câu hỏi lồng ghép vào phần giới thiệu bài như sau. “trong gần 2 thế kỷ trị vì nước ta, nhà Trần đã lập được nhiều công lớn, chấn hưng, xây dựng nền kinh tế nước nhà, ba lần đánh tan quân xâm lược Mông – Nguyên Nhưng tiếc rằng, đến cuối thời Trần vua quan lao vào ăn chơi hưởng lạc, đời sống nhân dân cực khổ trăm bề. Trước tình hình đó liệu Nhà Trần có tồn tại được không? Chúng ta cùng tìm hiểu bài học hôm nay”. Trong quá trình dạy học chúng ta vẫn phải tuân thủ trình tự cấu tạo của sách giáo khoa, song khi khai thác nội dung bài cần lưu ý nhấn mạnh giúp học sinh trả lời câu hỏi nêu trên. Khi các em trả lời được câu hỏi này tức là các em đã hiểu được kiến thức chủ yếu của bài. Đó chính là điều kiện quan trọng để tư duy của học sinh phát triển.
	+ Xây dựng hệ thống câu hỏi.
	 Ngoài câu hỏi có tính chất bài tập xuyên suốt toàn bài mà giáo viên nêu ra ngay đầu giờ học, trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải biết đặt ra và giúp học sinh giải quyết các câu hỏi có tính chất đánh giá kiến thức. Một hệ thống câu hỏi tốt nêu ra trong quá trình giảng dạy phải phù hợp với khả năng của các em, kích thích được tư duy phát triển, đồng thời tạo ra được mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên. Trong sách giáo khoa thường cuối mỗi phần kênh chữ có một vài câu hỏi lệnh. Những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách đồng thời bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Câu hỏi phải có sự chuẩn bị từ khi soạn giáo án, phải có dự kiến nêu nêu ra lúc nào? Dự kiến học sinh trả lời như thế nào? Đáp án phải ra sao? Rõ ràng việc sử dụng câu hỏi trong dạy học còn là một nghệ thuật. Khi câu hỏi đặt ra bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí thông minh sáng tạo đặc biệt là gây được cảm giác ngạc nhiên khi đối chiếu với cái mới biết và cái đã biết sau khi trả lời đúng câu hỏi do giáo viên nêu ra.
	Khi xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp nhằm kích thích sự tò mò ham hiểu biết và gây hứng thú cho học sinh đồng thời phát triển năng lực tư duy cho các em giáo viên không nên đặt câu hỏi mà các em chỉ cần trả lời một cách đơn giản là “có” hay “không” hoặc “đúng” hay “sai”. Bởi vì những câu hỏi như thế không đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ. Đồng thời cũng không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thỏa mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình, mà phải làm cho học sinh hiểu rằng trả lời đúng đầy đủ câu hỏi là tốt, xong vẫn phải tiếp tục suy nghĩ để trả lời hay hơn, sâu sắc hơn, thông minh hơn.
	Để thành công trong giờ học lịch sử, khi nêu câu hỏi giáo viên cần phải bám sát trình độ các đối tượng học sinh, câu hỏi không được mang tính chất đánh đố, máy móc mà phải gợi mở cho các em những suy nghĩ về những vấn đề mà câu hỏi yêu cầu gây được hứng thú, trí tò mò để các em tìm tòi. Muốn học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra giáo viên cần động viên, khuyến khích, học sinh tham gia trả lời câu hỏi dưới nhiều hình thức như nhận xét, khen ngợi, đánh giá, tuyên dương
* Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử
	Trong dạy học đồ dùng trực quan có vai trò rất quan trọng đối với bộ môn lịch sử. Tuy nhiên sử dụng như thế nào cho có hiệu quả nói chung, phát triển tư duy cho học sinh nói riêng thì không đơn giản. Như chúng ta đều nhận thấy rằng đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống với nhau: Tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu. Ngược lại nếu sử dụng không đúng lúc và lạm dụng thì dễ làm cho giờ học phản tác dụng. Đồ dùng trực quan có nhiều loại, mỗi loại có một cách sử dụng riêng và sau đây tôi xin trình bày một số cách sử dụng như sau:
+ Sử dụng hình vẽ, tranh, ảnh trong sách giáo khoa
	Hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa làm một phần của đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức, có tác dụng giáo dục tư tưởng, tính cách mà còn phát triển tư duy cho học sinh. Từ việc thường xuyên quan sát các tranh ảnh lịch sử, giáo viên đã luyện cho các em thói quen quan sát, xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những kết luận lịch sử. 
	Ví dụ: Khi dạy bài 5: Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (lịch sử lớp 4) giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 1 trận Bạch Đằng năm 938 yêu cầu học sinh quan sát tranh để thấy cuộc chiến ác liệt trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo. Từ đó làm cơ sở để học sinh trình bày tốt hơn, chân thực và sinh động hơn về diễn biến của trận đánh.
+ Khắc sâu biểu tượng chân dung nhân vật lịch sử 
	Nhân vật lịch sử có vai trò rất quan trọng trong dạy học Lịch sử. Khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch sử không những giúp học sinh ghi nhớ đến các anh hùng, danh nhân của dân tộc mà còn giáo dục các em học tập, noi gương những đức tính tốt đẹp của thế hệ cha anh đi trước trong công cuộc xây dựng và giữ gìn đất nước. Do đó, việc khắc sâu biểu tượng nhân vật lịch sử cho học sinh là một nội dung không thể thiếu trong dạy- học Lịch sử. Chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong việc giảng dạy và học tập lịch sử ở trường Tiểu học. Học sinh rất thích xem tranh, ảnh, chân dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ.Học sinh khi xem chân dung không chỉ chú trọng việc miêu tả bề ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành động của nhân vật thể hiện ở tranh ảnh. Khi sử dụng chân dung trong dạy học cần chú ý đến mục đích giáo dục và phát triển tư duy. Đối với anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, giáo viên phái làm nổi bật tính cách của nhân vật ấy thông qua miêu tả hình thức bên ngoài hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử của nhân vật đặc biệt là thời thơ ấu dễ làm cho học sinh hứng thú, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực học tập. Qua việc sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử, học sinh học tập được tài trí, đức độ của họ, qua đó các em rèn luyện mình theo các tấm gương đó.
	Ví dụ: Khi dạy bài Nhà Lý dời đô ra Thăng Long ( lớp 4) giáo viên yêu cầu học sinh quan sát chân dung tượng Lý Thái Tổ và yêu cầu học sinh cho biết đây là hình chụp tượng ai? Em biết gì về nhân vật lịch sử này? Sau khi học sinh quan sát nghiên cứu và tìm hiểu học sinh có thể biết được Lý Thái Tổ là một ông vua khai sáng nhà Lý, lúc 35 tuổi. Thủa nhỏ ông làm con nuôi sư Lý Vạn Hạnh. Đến tuổi trưởng thành ông làm quan triều đình nhà Lê. Là người thông minh có tài, văn võ song toàn, nhân cách trong sáng được triều thần nhà Lê quý trọng. Mùa xuân năm 1010, vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Qua đó ngoài kiến thức tìm hiểu lịch sử ít nhiều học sinh cảm phục và rèn luyện theo.
	Khi sử dụng các chân dung nhân vật phản diện cần hướng dẫn học sinh nhận xét những biểu hiện của tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh thu hút về hình thức của nhân vật mà quên đó là nhân vật phản diện.
	Sử dụng chân dung nhân vật lịch sử trong dạy học môn này sẽ mang lại hiệu quả rất cao. Nhưng không phải lúc nào cũng đưa chân dung của nhân vật lịch sử ra, mà phải chọn thời gian sử dụng phù hợp với từng nội dung bài học.
	+ Sử dụng bản đồ, lược đồ trong dạy học lịch sử
	Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng trong dạy học lịch sử. nó không chỉ góp phần quan trọng tái hiện lại cho học sinh những hình ảnh lịch sử chân thực nhất mà còn khắc phục được tình trạng nhầm lẫn lịch sử của học sinh. Trên bản đồ lịch sử, các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời điểm, địa điểm cùng một số yếu tố nhất định. Ví dụ: Khi dạy bài 17 “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ” ( lớp 5) nếu như chỉ phương pháp dùng lời, giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp cho là "Một pháo đài kiên cố không thể công phá". Rõ ràng khi chọn vị trí chiến lược cho kế hoạch của mình. Na-va đã nghĩ đến chiến dịch Điện Biên Phủ với địa hình cánh đồng Mường Thanh có núi cao bao bọc, hiểm trở sẽ gây khó khăn cho ta khi tiến công, hơn nữa đây còn là một vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc Bộ. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông Dương 1953-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 cùng với một số hình ảnh khác thì học sinh sẽ có nhiều biểu tượng khá rõ về "pháo đài kiên cố" là "Xương sống kế hoạch Na-va".
	Khi kết hợp sử dụng những biện pháp như vậy, giáo viên đã góp phần bồi dưỡng kiến thức lịch sử cho học sinh.
* Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
	Như chúng ta đã biết trò chơi trong học tập có rất nhiều tác dụng vì nó gây hứng thú, hào hứng tạo cho lớp học có một không khí thi đua học tập sôi nổi và tích cực nhất, đặc biệt là đối với môn học lịch sử nếu biết sử dụng nó một cách nhuần nhuyễn và đúng thời điểm thì hiệu quả sẽ tăng lên gấp bội. Thông qua hình thức tổ chức các trò chơi bổ ích, lý thú từ đó góp phần bổ sung, nâng cao kiến thức cho học sinh. Có rất nhiều trò chơi để phục vụ tốt cho môn học lịch sử tuy nhiên thiết kế và sử dụng như thế nào để có hiệu quả một cách tối ưu nhất, đó mới là vấn đề cần quan tâm. Và thông thường tổ chức trò chơi để củng cố nội dung bài học là hợp lý. Tuy nhiên không nên áp dụng một cách rập khuôn, cứng nhắc, lạm dụng mà phải biết sáng tạo vận dụng cụ thể vào từng bài học mới mang lại hiệu quả thiết thực. Chính vì thế trong đề tài này tôi xin giới thiệu một số trò chơi mà tôi thường sử dụng đã mang lại hiệu quả cao trong môn dạy lịch sử.
	+ Trò chơi Điền khuyết
	Mục đích của trò chơi này là giúp học sinh nắm vững, khắc sâu kiến thức đã học, rèn luyện sự nhanh trí, tăng khả năng phán đoán, lựa chọn. Trò chơi này có thể sử dụng để tìm hiểu bài. Giáo viên chuẩn bị như sau, ghi lại từng đoạn kiến thức quan trọng cần ghi nhớ trong bài học trong đó có những cụm từ để khuyến cho học sinh điền, có thể ghi vào bảng nhóm hoặc sử dụng máy chiếu thì càng tốt. Ở dưới mỗi đoạn cho trước một số cụm từ để cho các em lựa chọn. Tiến hành như sau: Giáo viên cho học sinh đọc lướt và tìm từ điền sau cho mời 2 học sinh lên bảng điền, nếu ai điền nhanh và chính xác thì thắng cuộc. Nếu sử dụng máy chiếu thì cho học sinh thi đua điền nhanh. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lý do chọn từ cần điền. Cuối cùng giáo viên nhận xét kết luận đáp án đúng, củng cố và mở rộng kiến thức về đoạn nội dung đó.
	Ví dụ: Khi dạy bài Nhà Lý dời đô ra Thăng Long (lịch sử lớp 4) giáo viên cho học sinh chơi trò chơi này để biết được vì sao vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ră Thăng Long. Giáo viên chọn đoạn nội dung sau: "Mùa xuân năm ..., một lần từ kinh đô Hoa Lư trở về thăm quê nhà. Lý Thái Tổ có ghé qua thành cũ ... Vua thấy đây là vùng đất ở ... đất nước, rộng lại ..., dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Nghĩ thế ông quyết định rời đô từ ... ra Thăng Long.Từ cần điền vào các chỗ khuyết: 1010, Đại La, trung tâm, bằng phẳng, Hoa Lư. Tuy nhiên giáo viên phải đổi lộn xộn các từ cần điền. Và sau khi tổng kết trò chơi giáo viên lồng ghép kể chuyện về vua Lý Thái Tổ.
	+ Trò chơi Ô chữ kì diệu:
	Mục đích của trò chơi này là thông qua trò chơi giúp hoc sinh biết vận dụng kiến thức đã học để giải các ô chữ. Từ đó rèn luyện kĩ năng ghi nhớ, suy luận, liên tưởng trong học tập.
	Giáo viên chuẩn bị như sau: Kẻ sẵn ô chữ vào bảng phụ hoặc bảng nhóm, cũng có thể kẻ trước lên bảng. Nếu sử dụng máy chiếu thì tốt nhất. Nếu không có giáo viên che toàn bộ ô chữ đã chuẩn bị, khi học sinh trả lời đúng ô nào thì mở ô đó ra. Sau đó tiến hành cho học sinh chơi như sau. Giáo viên gọi khoảng 3 học sinh tham gia đoán ô chữ. Giáo viên nêu câu hỏi gợi ý cho từng ô chữ hàng ngang. Từng em đoán 1. Nếu bạn trước không đoán trúng thì bạn sau đoán. Ai không đoán được lần 2 thì bị loại để bạn khác chơi. Người giỏi là người ở lại lâu nhất. Sau khi hoàn thành từ hàng ngang cho học sinh đoán ô chữ hàng dọc. Yêu cầu học sinh giới thiệu về nội dung từ khóa.
	Ví dụ: Khi dạy bài "Cuộc kháng chiến chống quần Tống xâm lược lần thứ nhất" (năm 981) lớp 4. Để kiểm tra học sinh tiếp thu bài như thế nào sau khi tìm hiểu bài, giáo viên tổ chức cho học sinh chơi và giáo viên chuẩn bị ô chữ và nội dung câu hỏi như sau:
N
Ề
L
Ê
Đ
Ạ
N
À
H
I
G
N
Ô
C
G
N
Ô
L
O
Á
L
I
H
C
G
N
Ă
I
Ê
L
T
H
N
Đ
I
N
H
T
À
O
N
Ạ
V
Ế
U
T
Câu hỏi giải ô chữ như sau:
	Câu 1: Ô chữ này gồm có 7 chữ cái. Đây là trận đánh do tướng Hầu Nhân Bảo chỉ huy?
	Câu 2: Ô chữ này có 6 chữ cái. Đây là triều đại do Lê Hoàng sáng lập?
	Câu 3: Ô chữ này có 9 chữ cái. Đây là niên hiệu của Lê Hoàn khi lên ngôi?	
	Câu 4: Ô chữ này có 10 chữ cái. Áo mà thái hậu Dương Vân Nga trao cho Lê Hoàn?
	Câu 5: Ô chữ này có 8 chữ cái. Tên một vị vua con thái hậu Dương Vân Nga lên ngôi lúc 6 tuổi?
	Câu 6: Ô chữ này có 6 chữ cái. Khi Lê Hoàn lên ngôi quân sĩ tung hô như thế nào?
	Sau khi phát hiện ra ô chữ hàng dọc yêu cầu học sinh nêu hiểu biết về

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_hoc_tot_mon_lich_su_o_ti.docx
  • docbáo cáo tóm tắt SKKN 16-17 CO BICH.doc