Giáo dục kĩ năng sống (KNS) là một nội dung quan trọng được thực hiện một cách có hệ thống trong nhà trường. Giáo dục KNS giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục KNS giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống.
Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, là một môn học có nhiều khả năng giáo dục KNS cho HS, điều đó được thể hiện:
Nhiệm vụ và nội dung môn GDCD chứa đựng những yếu tố của giáo dục KNS, phù hợp với trọng tâm của giáo dục KNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống.
Một trong những đặc điểm của môn GDCD là sự tích hợp nhiều nội dung giáo dục, trong đó có các nội dung giáo dục về các vấn đề xã hội. Vì vậy, việc tích hợp nội dung giáo dục KNS vào môn GDCD là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế hiện nay.
sống buông thả, bạo lực học đường, sống thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. đây cũng là điều khiến tôi phải suy nghĩ trước quyết định viết sáng kiến này. Tôi xin trình bày những điều rút ra từ thực tiễn rất mong được sự chia sẻ của đồng nghiệp cùng đóng góp trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cấp THPT hiện nay. Với phạm vi đề tài tôi xin mạnh dạn trình bày ở đây là ứng dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực khác nhau nhằm tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua giảng dạy bộ môn GDCD nhằm góp phần vào mục tiêu chung của trường 2. Mục đích nghiên cứu. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. 3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh trường THPT số 2 Bảo Yên. Năm học 2013 - 2014 4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu. Tích hợp nội dung về giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD trong trường THPT. Tập trung nghiên cứu tích hợp các kĩ năng cho học sinh gắn với thực tiễn đời sống, đáp ứng yêu cầu của xã hội. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. Giáo dục các kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống thường ngày cho học sinh THPT. 6. Phương pháp nghiên cứu. a. Cơ sở lý luận nghiên cứu: Các tài liệu liên quan phục vụ cho tích hợp giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh nói chung học sinh cấp THPT nói riêng. b. Phương pháp điều tra nghiên cứu: Kết hợp các phương pháp như tìm hiểu, nghiên cứu, nêu gương, điều tra phỏng vấn học sinh, phụ huynh học sinh và lấy ý kiến của các tổ chức đoàn thể trong trường. 7. Thời gian nghiên cứu: Với vấn đề nghiên cứu và vận dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân về giáo dục tích hợp KNS cho học sinh trường THPT được vận dụng trong một năm học 2012 - 2013. Trên cơ sở những kết quả đã thu thập sẽ phân tích tác động qua lại và tổng hợp một số kinh nghiệm trong việc tích hợp giáo dục KNS qua môn học cho học sinh trường THPT. II. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI. 1. Cơ sở nghiên cứu của đề tài. 1.1. Cơ sở pháp lý: Tài liệu giáo dục tích hợp kĩ năng sống. Các giá trị sống cần thiết trang bị cho học sinh. Các phóng sự, video về tích hợp giáo dục kĩ năng cần thiết. 1.2. Cơ sở lý luận: Thực hiện theo các văn bản hướng dẫn, quán triệt về việc giáo dục tích hợp cho học sinh. Nghiên cứu tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cần thiết cho học sinh cấp THPT. Giáo dục kĩ năng sống (KNS) là một nội dung quan trọng được thực hiện một cách có hệ thống trong nhà trường. Giáo dục KNS giúp học sinh rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Giáo dục KNS giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống. Môn GDCD ở trường THPT có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục, góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh, là một môn học có nhiều khả năng giáo dục KNS cho HS, điều đó được thể hiện: Nhiệm vụ và nội dung môn GDCD chứa đựng những yếu tố của giáo dục KNS, phù hợp với trọng tâm của giáo dục KNS là quá trình đối thoại, tương tác lẫn nhau, sử dụng vốn kinh nghiệm của người học để thực hành kĩ năng; phù hợp với cách tiếp cận làm thay đổi hành vi của người học trên cơ sở nhận thức về các vấn đề của cuộc sống. Một trong những đặc điểm của môn GDCD là sự tích hợp nhiều nội dung giáo dục, trong đó có các nội dung giáo dục về các vấn đề xã hội. Vì vậy, việc tích hợp nội dung giáo dục KNS vào môn GDCD là điều có thể thực hiện và phù hợp với xu thế hiện nay. Việc giáo dục các chuẩn mực xã hội không thể chỉ xuất phát từ yêu cầu nhà giáo mà phải xuất phát từ quyền lợi và nhu cầu phát triển của học sinh. Giáo dục KNS giúp học sinh có những kĩ năng thiết thực để sống an toàn, lành mạnh, có hiệu quả, do đó học sinh hứng thú học tập và lĩnh hội các chuẩn mực một cách chủ động, tự giác. Từ khả năng giáo dục KNS trong môn GDCD được xác định là hết sức quan trọng và cần thiết, mục tiêu giáo dục KNS trong môn GDCD cũng được xác định rõ ràng. Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT nhằm giúp học sinh: Hiểu được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân có thể sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển thể chất và tinh thần. Có kĩ năng làm chủ bản thân, biết xử trí linh hoạt trong các tình huống giao tiếp hằng ngày; có kĩ năng tự bảo vệ mình; rèn luyện lối sống có trách nhiệm với bản thân, bè bạn, gia đình và cộng đồng. Có nhu cầu rèn luyện KNS trong cuộc sống hằng ngày; ưa thích lối sống lành mạnh, có thái độ phê phán đối với những biểu hiện thiếu lành mạnh; tích cực, tự tin tham gia các hoạt động, có quyết định đúng đắn trong cuộc sống. 1.3. Cơ sở thực tiễn : Giáo dục và rèn KNS là một phạm trù rộng, tất cả các bộ môn, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như: Đoàn thanh niên, Công đoàn, tổ chuyên môn và tất cả giáo viên, học sinh đều phải bắt tay vào thực hiện. Trong đó môn GDCD là môn học có nhiều khả năng để thực hiện nội dung này nhất. Vì hầu hết tất cả các chủ đề và nội dung bài học đều có thể lồng ghép các nội dung giáo dục KNS cho học sinh. Trong những năm gần đây, việc giáo dục học sinh trong nhà trường đã không bó hẹp ở việc giảng dạy , cung cấp tri thức văn hóa mà yêu cầu cần phải cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết về kĩ năng trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt từ năm học 2011- 2012, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp KNS vào các môn học và đã tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên trực tiếp đứng lớp ở các cấp học và triển khai thực hiện nội dung này một cách có hệ thống và đồng bộ. Và đây cũng là xu thế giáo dục chung của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên khi triển khai và tổ chức thực hiện giáo dục KNS nói chung và đối với môn GDCD nói riêng nhiều lúc giáo viên còn lúng túng khi lựa chọn kĩ năng thích hợp để giáo dục học sinh, việc điều tiết giữa nội dung bài học với các KNS cần giáo dục trong thời gian 45’ của một tiết học gặp nhiều khó khăn cho giáo viên có năng lực chuyên môn còn hạn chế. Từ những vấn đề nêu trên bản thân cá nhân tôi đã lựa chọn chuyên đề “Giáo dục KNS cho học sinh THPT qua bài học môn GDCD” 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu: 2.1. Khái quát phạm vi: Ở các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Bảo Yên nói chung và xã Bảo Hà nói riêng cuốn theo nền kinh tế thị trường nhiều gia đình bố mẹ mải kiếm tiền quên mất trách nhiệm phải dạy con các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống vì thế các em thiếu các kĩ năng tối thiểu trong cuộc sống. Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống giúp tăng cường khả năng tâm lí, khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại là hết sức cần thiết trong mỗi nhà trường. 2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu: Học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, điều đó sẽ giúp các em được rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các em. Điều đó cũng giúp các em tăng cường khả năng tâm lí, có khả năng thích ứng, giúp các em có cách thức ứng phó với những thách thức của cuộc sống và trở thành người công dân đáp ứng yêu cầu xã hội hiện đại. Chính vì bản thân được phân công trực tiếp giảng dạy môn GDCD rất rễ lồng ghép tích hợp với giáo dục kĩ năng sống cho các em trong việc các kĩ năng ứng phó với cuộc sống đời thường. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng: Nơi trường đóng tuy cách xa trung tâm huyện nhưng địa phương xã Bảo Hà là khu vực tâm linh phát triển vì vậy kinh tế địa phương phát triển, điều đó không ít gia đình bố mẹ mải mê kiếm tiền nuôi gia đình không quan tâm đến việc giáo dục các con, bên cạnh đó tình trạng bùng nổ công nghệ thông tin cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục. Lứa tuổi học sinh trung học là lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách sống nên việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là hết cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng, đối phó với những sức ép của cuộc sống, phòng ngừa những hành vi có hại cho thể chất và tinh thần của các. 3. Quá trình và giải pháp thực hiện: 3.1. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh: Để thực hiện giáo dục KNS cho học sinh cấp THPT thông qua bài học GDCD thì việc chuẩn bị của giáo viên và học sinh là hết sức cần thiết, là khâu quan trọng quyết định sự thành công việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. a. Đối với giáo viên: Nghiên cứu kĩ tài liệu SGK, SGV và chuẩn KTKN để xác định đúng yêu cầu, mục tiêu bài học; Tìm hiểu rõ nội dung và địa chỉ giáo dục KNS trong từng bài học, từng phần, từng nội dung để xác định các KNS cơ bản cần được giáo dục học sinh. Hướng dẫn cụ thể, giao nhiệm vụ tới tận tay học sinh về yêu cầu của nội dung tích hợp giáo dục cho từng phần, từng bài học. Chuẩn bị kĩ các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc dạy và học của từng phần, từng bài. Cụ thể như: Tài liệu SGK, SGV, chuẩn KTKN. Máy tính, máy chiếu, bút dạ, giấy khổ lớn, phiếu học tập. Các phim liệu, thông tin thống kê, tranh ảnh. b. Đối với học sinh: Học sinh phải biết và phải tìm hiểu thông tin liên quan đến nội dung bài học như: sưu tầm tư liệu, tranh ảnh (nếu có), tìm hiểu trước nội dung bài học để tạo sự chủ động trong việc tìm kiếm, xử lí và tiếp nhận thông tin, kiến thức cho các em trong mỗi bài học. Học sinh chủ động tâm lí sẵn sàng, tự tin khi tham gia hoạt động tìm hiểu kiến thức rèn kĩ năng, giải quyết tình huống hay tham gia vào các trò chơi qua đó các em có cơ hội tự rèn cho mình những kĩ năng cần thiết. 3.2. Giải pháp thực hiện: * Giải pháp 1: Nghiên cứu tài liệu chuẩn KTKN, xác định rõ mục tiêu bài học. Sau đó nghiên cứu nội dung bài ở SGK, kết hợp tham khảo hướng dẫn giảng dạy ở SGV... để định hướng kiến thức cần đạt qua một tiết học. * Giải pháp 2: Nghiên cứu tài liệu Giáo dục KNS trong môn GDCD ở trường THPT để xác định những KNS cơ bản cần được giáo dục. Tham khảo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng tùy theo đối tượng và điều kiện dạy học cho phù hợp. Ví dụ: Qua bài học “Các cặp phạm trù cơ bản của đạo đức học” giáo viên đã xác định được các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục và các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng đó là: Các kĩ năng sống cơ bản cần được giáo dục: Kĩ năng xác định, phân tích, so sánh biểu hiện của tự trọng, tự ái thiếu tự trọng. Kĩ năng xác định giá trị của sự tự trọng, thể hiện sự tự trọng... Kĩ năng tự nhận thức của bản thân về lòng tự tin, tự trọng. Các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng: Thảo luận nhóm. Nghiên cứu trường hợp điển hình. Xử lí tình huống. * Giải pháp 3: Tiến hành soạn bài đáp ứng yêu cầu việc tích hợp giáo dục KNS cho học sinh. Khám phá: Kích lệ học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết những gì về bài học sắp tới; Ở bài học này chúng tôi cho học sinh tiếp xúc với một câu trong nhật ký Đặng Thùy Trâm giúp các em thể hiện được kỹ năng phân tích và trình bày. Kết nối: Giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo cầu nối liên kết giữa cái đã biết và cái chưa biết; HS được xem một đoạn video quà tặng cuộc sống về “Bài học về tự trọng” qua đó rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích, quan sát và tư duy phê phán HS cùng nhau tiếp sức qua trò chơi để rèn luyện kỹ năng hợp tác Thực hành: tạo cơ hội cho học sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào giải quyết tình huống qua đó rèn kĩ năng vào cuộc sống thực tiễn. Vận dụng: Mở rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng có được vào các tình huống, của đời sống xã hội. Sau đó, tiến hành thiết kế bài giảng đáp ứng yêu cầu giáo dục KNS. * Giải pháp 4: Chuẩn bị đồ dùng dạy học đã được xác định trong phần chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Với việc xác định mục tiêu bài học theo chuẩn KTKN, xác định những KNS cần được giáo dục qua bài học, chúng tôi mạnh dạn tiến hành bài dạy theo các phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh phát huy tính tự giác, sáng tạo của học sinh để học sinh rễ tiếp thu bài học, đồng thời giúp các em hình thành và rèn luyện các KNS cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn. 4. Phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài. 4.1 Phương pháp thảo luận nhóm: Khi dạy các em lựa chọn phương pháp thảo luận nhóm cùng trao đổi, nhận xét, phát hiện, bày tỏ ý kiến của mình về KNS của bản thân, của bạn của mình giáo viên đưa ra ý kiến của mình qua đó đánh giá hành vi đúng, sai của các em điều đó giúp các em mới nhớ rất lâu những nội dung đã từng thảo luận. 4.2 Phương pháp hồi tưởng: Ví dụ khi dạy bài 11 GDCD lớp 10 “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học”: Các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức. Cho học sinh kể lại những hành vi phạm trong cuộc sống thường ngày. Sau đó học sinh trình bày những quan điểm của mình. Giáo viên có nhiệm vụ liệt kê trên bảng, giáo viên nhắc lại những điều cần thiết trong cuộc sống, nhất là những em còn vi phạm cần rèn ngay. 4.3 Phương pháp đóng kịch: Cho các em đóng kịch thể hiện ngay trên sân khấu thông qua các buổi sinh hoạt tập thể. Từ đó các em được nhắc lại những các giá trị sống và các kĩ năng sống cần thiết trong đời sống. 4.4 Phương pháp trắc nghiệm: Như những các môn học khác trong một giờ học phải tạo cho các em hứng thú học tập, nên các giảng dạy môn GDCD tích hợp việc giáo dục KNS cũng phải phong phú đa dạng, theo hướng từ đơn giản đến phức tạp, các em có kĩ năng cần thiết và phải được hình thành từ thụ động đến chủ động, hướng dẫn các em từ từ không nên ép buộc các em phải nhớ ngay mà các em sẽ có kỹ năng dần trong các giờ thực hành ngoại khóa, hay từ những tình huống thật mà các em thường gặp phải. 4.5 Phương pháp nêu gương: Tuyên dương, phê bình kịp thời và thường xuyên các em rèn kĩ năng sống tốt trong các giờ học môn GDCD hay trong các buổi sinh hoạt tập thể, thực điều này sẽ giúp cho những học sinh thực hiện tốt luật giao thông đường bộ sẽ hình thành cho mình thói quen cơ bản nhất, ngược lại nếu học sinh nào thực hiện chưa tốt sẽ lấy bạn làm gương để thực hiện tốt hơn. 5. Một số lưu ý khi giáo dục KNS cho học sinh THPT qua bài học môn GDCD: * Thuận lợi: Giáo viên giảng dạy bộ môn phải thực sự nhiệt tình yêu nghề; được tham gia các lớp tập huấn về các nội dung giáo dục KNS; luôn nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, tổ bộ môn trong suốt quá trình giảng dạy; BGH, tổ chuyên môn giáo viên cùng bộ môn luôn quan tâm, giúp đỡ động viên một cách kịp thời. HS có ý thức học tập luôn chăm ngoan tu dưỡng đạo đức và hứng thú với việc học tập và rèn luyện các kĩ năng trong cuộc sống. * Khó khăn: Tài liệu phục vụ giảng dạy và giáo dục KNS còn thiếu, chỉ mang tính định hướng nên giáo viên phải tự nghiên cứu, tìm tòi các thông tin, tài liệu khác để bổ trợ cho việc dạy - học và rèn kĩ năng cho cho học sinh. Áp lực về thời gian chỉ tổ chức được trong một tiết học 45 phút. Cơ sở vật chất tuy đã được đầu tư và cải tiến nhiều song nó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của việc sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như lớp học thiếu không gian rộng để chia nhóm, di chuyển học sinh trong lớp học khi sử dụng phòng trình chiếu mất nhiều thời gian và gây ảnh hưởng các lớp học khác. Học sinh của trường chủ yếu là người dân tộc thiểu số ít vai chạm nên còn rụt rè, nhút nhát trong việc học tập và rèn kĩ năng trong cuộc sống. Trong nhận thức của học sinh, phụ huynh học sinh vẫn xem nhẹ, coi thương môn học GDCD, chỉ xem đây là một môn học phụ nên chưa thực sự chú tâm, đầu tư cho việc học tập. Tài liệu SGK phục vụ cho việc dạy học của giáo viên không phù hợp với thực tiễn, không đáp ứng nhu cầu của xã hội. Học sinh cấp THPT là học sinh học từ lớp 10 đến lớp 12 được học rất nhiều về những đức tính tốt, các quy luật và các điều quy định của pháp luật .nhưng vẫn còn nhiều hiện tượng học sinh vi phạm luật, điều này cho thấy sự vận dụng nội dung bài học vào thực tế đời sống của các em chưa cao, các em chưa có các KNS thích hợp trong xã hội. * Thực hiện: Việc lựa chon và lồng ghép giáo dục KNS phải tùy thuộc nội dung vào từng bài học cụ thể và tình hình học sinh ở từng trường, từng địa phương khác nhau: Phạm trù về đạo đức học như Lương tâm, danh dự, nhân phẩm, tự trọng, tự ái, hạnh phúc.chúng ta có thể hình thành và rèn luyện cho các em những KNS sống như kỹ năng phê phán, thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự nhận thức. Khi dạy các bài về chủ đề pháp luật thì chúng ta có thể giáo dục cho các em các kỹ năng: phân tích so sánh, tư duy sáng tạo, tìm kiểm và xử lý thông tin, kỹ năng kiên định, kỹ năng ra quyết định, kỹ thực hiện.. Khi dạy lồng ghép giáo dục KNS giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng liên quan đến nội dung bài học: 5.1 Rèn kỹ năng cho học sinh giải thích các khái niệm trước khi vào bài học: Giáo viên cần tìm hiểu kỹ các khái niệm liên quan đến nội dung bài học. Giao nội dung cho học sinh chuẩn bị cho tiết học sau, giáo viên yêu cầu học sinh chú ý trước một số khái niệm của tiết học sau. 5.2 Yêu cầu vận dụng khái niệm để giải quyết vấn đề: Sau khi hình thành khái niệm, giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng để giải quyết các tình huống trong phần Đặt vấn đề của Sách giáo khoa ở mỗi bài học. 5.3 Rèn kỹ năng tư duy, phê phán những hành vi sai trái: Đây là một việc làm thường xuyên trong các bài học môn GDCD. Tuy thuộc vào các nội dung cụ thể trong từng bài học, giáo viên đặt ra một số tình huống vi phạm các nội dung pháp luật hoặc trái với các chuẩn mực đạo đức đang học, cho học sinh trình bày những ý kiến đánh giá của mình đối với các hành vi đó, đặt học sinh vào tình huống đó và đề xuất hướng giải quyết vấn đề. 5.4 Rèn kỹ năng vận dụng nội dung bài học để làm bài tập: Sau khi nghiên cứu tìm hiểu xong phần nội dung bài học, yêu cầu học sinh vận dụng ngay để làm các bài tập. Phần này giáo viên có thể tách riêng làm một mục trong nội dung bài học, sau khi đã tìm hiểu xong nội dung lý thuyết hoặc có thể kết hợp đan xen trong từng mục của nội dung bài học. 5.5 Rèn kỹ năng vận dụng nội dung bài học để giải quyết một số vấn đề thực tế: Giáo viên có thể sưu tầm một số tình huống trong thực tế của trường mình gần gũi với học sinh để yêu cầu các em đề xuất hướng giải quyết tình huống đó. Có thể yêu cầu học sinh tự liên hệ và tìm các tình huống có liên quan đến nội dung bài học để giải quyết. 5.6 Kỹ năng liên hệ và vận dụng của bản thân: Yêu cầu học sinh tự nhận xét ý kiến của nhau hoặc kiểm điểm bản thân. (Cần chú ý đối với các em thường làm trái với các nội dung chuẩn mực hoặc các quy định có trong nội dung bài học). 6. Kết quả: Việc chú trọng rèn luyện KNS cho học sinh vào nội dung các môn học trong đó có môn GDCD đã đem lại một số kết quả như sau: Học sinh có khả năng giao tiếp và trình bày trước tập thể của học sinh được tăng lên. Các em học sinh khá giỏi, thường tham gia các hoạt động tập thể thì đã đi vào độ chuyên nghiệp hơn, dám nhận một số công việc trong các hoạt động lớn của Đoàn thanh niên như dẫn chương trình, hùng biện, trình bày các vấn đề trước tập thể; đối với các học sinh còn hạn chế về nhận thức thì nay các em cũng đã mạnh dạn hơn, dám đưa tay phát biểu và trình bày ý kiến của mình trước tập thể. Tỷ lệ học sinh vi phạm về đạo đức đã giảm khá rõ nét, không còn tình trạng học sinh vi phạm pháp luật ở địa phương, việc chấp hành nội quy học sinh cũng được thực hiện nghiêm túc hơn trước Học sinh hứng thú, say mê với bộ môn thích khám phá bày tỏ ý kiến của mình với từng tình huống đặt ra trong từng tiết học, nhờ vậy mà chất lượng bộ môn được tăng lên. Kết quả đạt được: năm học 2013 -2014 đạt tỷ lệ khá giỏi 82 % vượt tỷ lệ khá giỏi năm học 2012 - 2013 là 40%
Tài liệu đính kèm: