Kỹ năng sống là yếu tố cần thiết trong mọi thời đại đặc biệt là trong thời kì hội nhập. Hiện nay có nhiều quan niệm về KNS và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo những cách khác nhau: Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) : KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết Học để tự khẳng đinh, Học để cùng chung sống với người khác, Học để làm. Từ góc độ sức khỏe, Tổ chức y tế thế giới (WHO) xem KNS là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Còn theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. Như vậy : Kĩ năng sống là năng lực tâm lí- xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội ,khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
phần đổi mới toàn diện nền giáo dục đào tạo gắn với 4 mục tiêu quan trọng của giáo dục: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”. Nội dung giáo dục kỹ năng sống đã được tích hợp trong một số môn học và các hoạt động giáo dục trong trường phổ thông, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh còn được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án như: Giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục phòng tránh HIV/AIDS, giáo dục phòng chống ma túy, giáo dục phòng tránh thương tích, giáo dục vệ sinh an toàn thực phẩm.., giáo dục KNS gắn với những nội dung và vấn đề cụ thể. Ngữ văn là môn học giữ vị trí quan trọng trong chương trình giảng dạy các môn văn hóa phổ thông. Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp người học có được những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người. Ngoài ra môn Ngữ văn giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người, bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.Vì thế, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo dục các KNS cho học sinh. Trong môn Ngữ văn, một bộ phận Văn học rất quan trọng được đưa vào đầu chương trình mỗi cấp học, đó chính là Văn học dân gian. Tìm hiểu Văn học dân gian, học sinh không chỉ khám phá được cái hay, cái đẹp của sáng tác nghệ thuật ngôn từ, mà còn thu thập được vốn hiểu biết về văn hóa xã hội, phong tục tập quán, nếp sống, những sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc, biết vận dụng những phần tinh túy ấy vào cuộc sống thực tiễn. “ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc Việt Nam", vì vậy giáo viên Ngữ văn cần lựa chọn phương pháp - phương tiện..., những sáng tạo mới phù hợp với nội dung văn học dân gian, nhằm tổ chức, định hướng cho học sinh thu thập thông tin, chinh phục kho tàng tri thức một cách hiệu quả, nắm bắt được những giá trị quý giá nhất trong đời sống tinh thần của con người và qua đó giáo dục KNS cho học sinh. Trường PTDTNT THCS&THPT Bắc Hà là cái nôi đào tạo cán bộ các ngành, nghề cho 3 huyện nghèo, khó khăn của tỉnh Lào Cai, một tỉnh miền núi Tây Bắc của Tổ quốc. Trong thời gian qua nhà trường đã rất quan tâm đến việc chỉ đạo và tổ chức giáo dục KNS cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng toàn diện của nhà trường. Hoạt động giáo dục KNS rất được chú ý trong các bài học, môn học, qua sự trải nghiệm của học sinh trong các hoạt động ngoại khóa, trong thực tế cuộc sống học tập tại môi trường nội trú. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tại nhà trường. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cá nhân tôi và các giáo viên văn trường PTDT Nội trú THCS&THPT Bắc Hà đã tổ chức thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong từng tiết học đặc biệt là tiết đọc văn. Hoạt động này bước đầu thu được hiệu quả tương đối khả quan, tạo hứng thú cho học sinh học tập, nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Trong quá trình giảng dạy phần Văn học dân gian Việt Nam ở lớp 10, tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giáo dục KNS cho các em học sinh- đặc biệt là học sinh dân tộc vùng khó khăn, xin trình bày để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo. II. Giải quyết vấn đề 1. Cơ sở lý luận của vấn đề 1.1. Kỹ năng sống. Kỹ năng sống là yếu tố cần thiết trong mọi thời đại đặc biệt là trong thời kì hội nhập. Hiện nay có nhiều quan niệm về KNS và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo những cách khác nhau: Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) : KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết Học để tự khẳng đinh, Học để cùng chung sống với người khác, Học để làm. Từ góc độ sức khỏe, Tổ chức y tế thế giới (WHO) xem KNS là những kĩ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng về giao tiếp để tương tác hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Còn theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. Như vậy : Kĩ năng sống là năng lực tâm lí- xã hội của mỗi cá nhân, giúp con người có khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội ,khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. 1.2 Mục tiêu của của giáo dục Trong báo cáo của Hội đồng giáo dục thuộc UNESCO về “ Giáo dục cho thế kỷ XXI ” đề ra từ năm 1997 đã khẳng định vai trò cơ bản của giáo dục trong sự phát triển của xã hội và mỗi con người. Báo cáo đã đề xuất 4 trụ cột của giáo dục : Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người. Đây là 4 con đường kiến thức hợp thành một thể thống nhất có mối liên hệ mật thiết tác động qua lại giữa chúng với nhau, mỗi trụ cột có vai trò, vị trí riêng trong hệ thống thành chỉnh thống nhất. Từ năm 1997, thông điệp trên đã được nhiều quốc gia tiếp nhận cho triết lý phát triển giáo dục của đất nước mình khi bước vào thế kỷ XXI. Quan điểm giáo dục phát triển toàn diện được trình bày trong nhiều văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước. Luật giáo dục năm 2005 đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện’. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009-2020 (Dự thảo làn thứ 14) đã xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời tạo lập nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và Đào tạo phải góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu quả ở môi trưởng toàn cầu hóa, vừa hợp tác vừa cạnh tranh”. Có thể khẳng định, mục tiêu giáo dục toàn diện không thể đạt được nếu không có giáo dục kỹ năng sống. Trong hệ thống giáo dục của nước ta trong những năm vừa qua, KNS thường được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau: Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình bao gồm các KNS cụ thể như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tinNhóm các kỹ năng tự nhận biết và sống với người khác bao gồm các KNS cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẩn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tácNhóm các kỹ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm các kỹ năng cụ thể như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề Có thể nói KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi, và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn thử thách; biết ứng xử giải quyết vấn đề một cách tích cực phù hợp, họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống cuộc sống của chính mình. 2. Thực trạng của vấn đề Từ nhiều năm nay, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới phương pháp giảng dạy đã được ngành Giáo dục nói riêng và cả xã hội quan tâm, đặc biệt là việc dạy môn Ngữ văn gắn với giáo dục kỹ năng sống ở cấp trung học đã được chú trọng trong các nhà trường. Bộ Giáo dục, Sở giáo dục& Đào tạo Lào Cai đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể về tổ chức dạy học tích hợp, giáo dục kỹ năng sống, tổ chức tập huấn cho giáo viên về giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống, xác lập địa chỉ giáo dục KNS cho các giờ học, bài học, tạo cơ sở cho giáo viên bộ môn xây dưng kế hoạch và thực hiện thống nhất. Giáo dục KNS càng trở nên cấp thiết trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì: Các em học sinh chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước. Nếu thiếu KNS các em không thể thực hiện tốt được trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, xã hội. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi khám phá nhưng còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, sức đề kháng chưa cao nên dễ bị lôi cuốn kích động. Là trường dân tộc nội trú có 2 cấp học THCS và THPT, trường Phổ thông DTNT THCS&THPT Bắc Hà tuyển sinh các em học sinh đến từ các huyện Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Khương. Đa số các em đã được sống , học tập và trưởng thành trong các trường Dân tộc nội trú, bán trú của các huyện nên học sinh ngoan, chăm chỉ học tập. Tuy nhiên do sinh ra và lớn lên tại các vùng kinh tế xã hội còn khó khăn, điều kiện tiếp xúc còn hạn chế nên các em còn thiếu các kỹ năng sống cơ bản như: kỹ năng tư duy (tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả), kỹ năng cá nhân (ứng phó với những căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin trong cuộc sống) các kĩ năng xã hội (giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông), kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ( kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm). Khi tham gia vào giờ học và các hoạt động giáo dục khác các em thường chưa chủ động thực hiện nhiệm vụ, tư duy sáng tạo còn hạn chế, chưa tự tin trình bày ý kiến của mình, khi giao tiếp còn rụt dè, chưa biết đặt mục tiêu thực hiện nhiệm vụ, việc thương lượng, hợp tác trong hoạt động nhóm chưa đạt hiệu quả, kỹ năng kiểm soát cảm súc chưa tốt, thiếu các hiểu biết về xã hội, kinh nghiệm sốn còn hạn chế nên học sinh dễ bị rủ rê, lôi kéo... Việc giáo dục tích hợp KNS vào giờ học Ngữ văn là một nhu cầu xuất phát từ thực tiễn và từ mục tiêu giáo dục. Việc giáo dục này nhằm trang bị cho học sinh một số KNS cơ bản để học sinh tự tin bước vào đời, hơn nữa các tiết học có lồng ghép giáo dục KNS bao giờ cũng đạt được mục tiêu thân thiện, tích cực, tạo điều kiện cho các em thực hành và phát huy tối đa năng lực của bản thân. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Việc giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn được tiến hành từ hai phương diện: từ nội dung các bài học, từ phương pháp tổ chức các hoạt động giờ học và tổ chức các hoạt động ngoại khóa 3.1 Giáo dục kỹ năng sống từ nội dung các bài học, từ phương pháp tổ chức các hoạt động giờ học trong chương trình Ngữ văn 10 - Phần đọc hiểu các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam 3.1.1 Giáo dục cho học sinh kỹ năng tự nhận thức Kỹ năng tự nhận thức là từ sự nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân trong các mối quan hệ về xã hội. Biết nhìn nhận đánh giá đúng về bản thân.Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp có hiệu quả. Có những lúc chúng ta đánh giá sai về mình nên chần chừ không quyết đoán, ta sẽ tự đánh mất cơ hội. Ngoài ra có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Để nhận thức đúng về bản thân cần được phải trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là qua giao tiếp với người khác, qua tác phẩm văn học. Khi đọc hiểu tác phẩm “ Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy”, giáo viên có thể sử dụng dùng các phương pháp dạy học tích cực như động não, nêu vấn đề gợi mở, tổ chức cho học sinh tranh luận trình bày quan điểm của mình về mối tình Mị Châu - Trọng Thủy, ý nghĩa bài học rút ra từ câu chuyện. Qua đó học sinh tự nhận thức bài học về tinh thần cảnh giác được gửi gắm qua truyền thuyết. Trong giờ đọc văn “Tấm Cám” giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hệ thống hóa các chi tiết trong tác phẩm, quá trình đấu tranh của Tấm, kết quả các lần đấu tranh, từ đó nắm chắc nội dung cốt truyện, các tuyến nhân vật, ý nghĩa các chi tiết trong tác phẩm từ đó hiểu ý nghĩa hàm ẩn về quan niệm sống "Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo" được gửi gắm qua câu chuyện. Qua đó học sinh tự nhận thức, xác định giá trị của cái tốt, cái thiện và có ý thức đấu tranh bảo vệ cái tốt, chống lại cái ác, cái xấu trong cuộc sống. Trong cụm các bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa giáo viên định hướng cho học sinh cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu, về nghĩa tình của người Việt Nam trong cuộc sống, qua đó học sinh tự rút ra bài học cho bản thân về cách sống, ứng xử với bạn bè trong môi trường học tập nội trú, trong mối quan hệ với gia đình, cách ứng xử với những người xung quanh. Với các trích đoạn trong sử thi Đăm San, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo bàn, cùng chia sẻ những ý kiến của cá nhân về vai trò của người anh hùng Đăm San trong cộng đồng, mục đích chiến đấu của Đăm San, trả lời câu hỏi sao Đăm San lại có thểdễ dàng thu phục dân làng của Mơtao- Mơ xây sau chiến thắng. Tổ chức cho học sinh làm việc nhóm lớn và phát biểu cảm nhận về hình tượng Đăm San, sức sống của nhân vật trong cộng đồng Tây Nguyên, liên hệ với câu chuyện của dân tộc mình để giới thiệu các nhân vật, câu chuyện tương tự. Qua trao đổi, thảo luận, học sinh nhận thức vai trò của cá nhân với cộng đồng dân tộc mình, có ý thức giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, giao lưu, tìm hiểu các nét đẹp truyền thống của dân tộc khác trong cộng đồng các dân tộc anh em. Với truyện cười, tổ chức hoạt động nhóm, sáng tạo các dị bản của thời hiện tại để kể lại câu chuyện mà vẫn giữ nguyên cốt truyện và ý nghĩa của truyện. Ví dụ câu chuyện Nó "phải" bằng hai mày, có thể thay đổi tên nhân vật, tình tiết các nhân vật, nội dung tranh chấp, cách giải quyết tại tòa án...Qua đó học sinh nhận thức mặt trái của đồng tiền, phê phán những kẻ tham quan... Hoạt động tự nhận thức ở mỗi học sinh ở mức độ khác nhau, vì vậy giáo viên cần có biện pháp phù hợp để tác động đến các đối tượng khác nhâu trong lớp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 3.1.2 Giáo dục kỹ năng giao tiếp, sự tự tin cho học sinh Thông qua các bài đọc văn, giáo viên cần chú ý đến khả năng giao tiếp của từng học sinh, chú ý đến các học sinh còn nhút nhát, hoặc chưa tự tin trong giao tiếp, chủ động gợi mở, tạo cơ hội để các em được trình bày ý kiến của mình, giao tiếp với bạn bè, với thầy cô một cách thoải mái. Với sử thi Đăm San, giáo viên có thể gợi ý để học sinh trình bày cảm nhận về nhân vật Đam San bằng các câu hỏi: Theo cảm nhận của em người anh hùng Đăm San có những phẩm chất nổi bật nào?. Chi tiết nào trong tác phẩm tạo ấn tượng sâu sắc nhất với em? Em hãy kể lại theo cách sáng tạo về một chi tiết trong cuộc chiến đấu của Đăm San với Mơ tao - Mơ xây thể hiện sức mạnh lớn lao của Đăm San?. Với các tiết đọc văn về các thể loại truyền thuyết, truyện cười, truyện cổ tích, có thể cho học sinh đóng vai các nhân vật, tổ chức đối thoại, thể hiện ngôn ngữ, tình cảm thái độ của nhân vật. Ví dụ lời nói và động tác của cô Tấm khi gọi cá bống lên ăn cơm, lời của chim vàng anh, tiếng khung cửi khi nói với Cám..., Sáng tạo cuộc đối thoại giữa Mỵ Châu và Trọng Thủy khi hai người chia tay nhau..., kể chuyện sáng tạo cuộc gặp gỡ giữa Mị Châu và Trọng Thủy dưới thủy cung khi hai người đã chết, đoạn kể tiếp nối câu chuyện của Cải và Ngô sau khi được quan xử kiện... Với cụm các bài ca dao giáo viên đã tổ chức cho các em đọc văn bản nhiều lần, sửa lỗi sai phát âm, tổ chức thi đọc diễn cảm, đọc thuộc một số câu ca dao, thi đọc nhanh với các từ khóa cho trước trong các câu ca dao... Kết hợp với các yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh, giáo viên cần thể hiện thái độ ân cần thân thiện, giúp đỡ uốn nắn các em trong giao tiếp, động viên khuyến khích kịp thời, học sinh đã cảm thấy tự tin hơn trong giao tiếp. 3.1.3 Giáo dục kỹ năng thể hiện sự cảm thông Mục đích của việc giáo dục kỹ năng thể hiện sự cảm thông là giúp học sinh có thể hình dung và đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, từ đó hiểu tình cảnh, cảm xúc của người khác,và có thể cảm thông chia sẻ với người khác trong mọi hoàn cảnh, ở mọi lúc mọi nơi. Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao tiếp và ứng xử giữa học sinh với nhau, với mọi người, đồng thời cải thiện các mối quan hệ giao tiếp đặc biệt là trong môi trường nội trú. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông cũng giúp khuyến khích thái độ quan tâm, hành vi thân thiện gần gũi với với những người cần giúp đỡ trên cơ sở của kỹ năng tự nhận thức và kỹ năng giao tiếp. Ví dụ : Trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy, giáo viên cần định hướng cho học sinh phát biểu ý kiến của mình về nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của Mị Châu, bày tỏ quan điểm về mâu thuẫn giữa việc Mị Châu làm lộ bí mật để gây hậu quả lớn, bị coi là giặc, nhưng máu Mị Châu khi chảy xuống biển trai ăn phải lại trở thành ngọc trai, ngọc trai rửa ở giếng Loa Thành lại sáng hơn...Qua đó nhận thức về thái độ đồng cảm, sự công bằng của nhân dân với Mị Châu. Hoặc với truyện cười cần gợi mở cho học sinh phát biểu cảm nhận về hai nhân vật Cải và Ngô xem họ đáng thương và đáng trách ở điểm nào. Vớinhững bài ca dao về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, học sinh có thể trình bày sự cảm thông chia sẻ, so sánh đối chiếu để thấy vai trò của người phụ nữ trong thời đại hiện nay. Với truyện cổ tích Tấm Cám cần cho các em thấy được vai trò của chi tiết cái yếm đào và hành động lừa gạt chiếm giỏ tép của Cám với Tấm, các chi tiết và những hành động chiếm đoạt liên tiếp của mẹ con Cám với cô Tấm, chi tiết kết thúc truyện...Cần cho học sinh nhận thức đúng động cơ chiếm đoạt của mẹ con Cám, về cách ứng xử trong mâu thuẫn mẹ ghẻ, con chồng, triết lý nhân sinh về cuộc sống mà tác tác giả dân gian gửi gắm vào câu chuyện. 3.2 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động ngoại khóa phần văn học dân gian Việt Nam trong chương trình lớp 10 Hoạt động ngoại khoá Văn học theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy học là một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, đồng thời đây là hình thức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách thiết thực và hiệu quả nhất. Hoạt động ngoại khoá Văn học vừa là hoạt động giáo dục "góp phần tạo ra lối sống văn hoá và khả năng hưởng thụ văn hoá nghệ thuật cho học sinh. Qua hoạt động ngoại khoá Văn học, học sinh được phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và mĩ dục" (Phan Trọng Luận) Hoạt động ngoại khoá Văn học càng cần thiết và bổ ích khi được áp dụng vào quá trình dạy học phần Văn học dân gian ở bậc THPT. Tổ chức hoạt động ngoại khoá Văn học dân gian là một công việc có ý nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên, để tổ chức tốt hoạt động này cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về khâu tổ chức. Ngoại khoá Văn học dân gian góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của Văn học dân gian vì thế nó còn có tác dụng tích cực trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT. Học sinh được thể hiện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng thể hiện sự tự tin, kỹ năng tư duy sáng tạo Có thể lựa chọn một số nội dung sau để tổ chức ngoại khóa : 3.2.1 Ngoại khoá về truyện cổ dân gian. - Hướng dẫn học sinh đọc thêm những thuyện cổ dân gian ngoài chương trình để chọn và dựng hoạt cảnh chuyển thể từ truyện cổ dân gian (Ví dụ: truyện về các thầy đồ, thầy bói, thi nói khoác một cách sáng tạo) - Kể chuyện dân gian (chú ý tạo không gian kể chuyện ), thể hiện các hoạt cảnh chuyển thể từ truyện cổ dân gian . 3.2.2 Ngoại khoá về thơ ca dân gian - Chuẩn bị các tiết mục hát dân ca các vùng miền - Có thể sưu tầm, lựa chọn các bài hát dân ca của các dân tộc anh em 4. Hiệu quả của áp dụng SKKN: Khi lồng ghép giáo dục KNS trong tiết đọc văn của phần văn học dân gian lớp 10 tại trường PTDTNT THCS&THPT Bắc Hà, tôi đã thu được kết quả tương đối khả quan: Giờ học không còn khô khan nặng nề về lí thuyết mà học sinh có hứng thú học tập nh
Tài liệu đính kèm: