Lựa chọn câu chuyện có nội dung hấp dẫn, có tính giáo dục cao, phù hợp với lứa tuổi của học sinh và mục đích giáo dục.
Chuẩn bị sẵn khoảng ba tên chuyện và hệ thống câu hỏi (hợp lí với các tình tiết diễn biến của câu chuyện).
Khai thác những mặt tích cực của câu chuyện. Nhìn nhận đánh giá nội dung câu chuyện dưới những góc độ khác nhau.
Khi kể cần lưu loát, sử dụng ngữ điệu.
Sau khi kể xong cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ tìm cách đặt tên.
ỡ lẫn nhau, tạo nên bầu không khí lớp học đoàn kết, cởi mở và thân thiện. Trong quá trình bàn bạc các công việc chung của lớp trong tiết sinh hoạt tập thể dưới hình thức giao lưu - đối thoại sẽ phát triển được bầu không khí thuận lợi cần thiết cho giáo dục, giúp mọi học sinh tin tưởng và không sợ hãi về mặt tâm lí. Các em sẵn sàng đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, sẵn sàng nghe và tiếp nhận những ý kiến của người khác một cách tôn trọng. Giao lưu - đối thoại sẽ phát triển ở mọi học sinh lòng tin vào sức lực cá nhân, phát triển thái độ phê bình đối với bản thân, sự tôn trọng đối với các bạn, tính sẵn sàng giải quyết có sáng tạo các vấn đề đặt ra và niềm tin vào khả năng giải quyết chúng. III. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRONG GIỜ SINH HOẠT CHỦ NHIỆM Sau khi giáo viên tổ chức cho học sinh tổng kết thi đua, phổ biến kế hoạch, tuyên dương học sinh tiến bộ, xử lí học sinh vi phạm nội quythì nên tổ chức các hoạt động theo các phương pháp sau: 1. Phương pháp đóng vai a. Khái niệm Đóng vai là một phương pháp trong đó một số thành viên diễn thử tình huống như ở ngoài đời trước mặt tập thể lớp. Sau đó các nhóm trao đổi dưới sự hướng dẫn của giáo viên để rút ra những điều cần học tập, rút kinh nghiệm trong cuộc sống, trong ứng xử. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy. b. Tác dụng Kích thích sự hứng thú và tham gia tích cực của học sinh. Phát triển kỹ năng giao tiếp và diễn đạt bằng ngôn ngữ một cách dễ dàng. Giúp học sinh có kỹ năng hòa nhập với cuộc sống, sống hòa hợp với mọi người qua việc đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu họ. Tăng sự đoàn kết giữa các thành viên trong lớp. c. Những chú ý khi thực hiện: Mất thời gian, dễ xa rời thực tế khi đóng “kịch” quá mức. Tình huống mà học sinh đóng vai nên để mở phần kết để học sinh tự nghĩ. d. Quy trình thực hiện Giới thiệu cho học sinh tình huống mà các em sẽ đóng vai, trao đổi thảo luận để làm rõ (nên chọn tình huống ngắn). Phân vai cho các học sinh (tự nguyện hoặc chỉ định). Các “diễn viên” suy nghĩ, chuẩn bị và nhập vai. Các “diễn viên” của các nhóm lên biểu diễn trước tập thể lớp. Trao đổi rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết. Ví dụ: Tiểu phẩm “Hai con chim” Trong năm học 2013-2014, tôi chủ nhiệm lớp 10A4, là một lớp có phong trào học tập khá sôi nổi. Tuy nhiên trong lớp có hai học sinh là Trần Thị Huyền Trang và Nguyễn Tài Linh ngồi cùng một bàn không hợp tác trong tất cả các họat động nhóm mà giáo viên yêu cầu. Vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm của tuần học thứ tám, Trang xin được đổi chỗ ngồi vì lí do không thể cùng quan điểm, không thảo luận với bạn Linh được. Tôi đã nói để cô xem xét lại và tổ chức cho lớp đóng tiểu phẩm ngay vào tuần học thứ chín. Tiểu phẩm như sau: “Có hai con chim đậu trên hai cành cây vú sữa. Lá của cây vú sữa có đặc điểm là mặt trên và mặt dưới của lá rất khác nhau. Hai con chim nói chuyện với nhau: - Chim A: Này cậu, những chiếc lá mới xanh làm sao cậu nhỉ. - Chim B: Tớ thấy nó vàng vọt chứ có xanh tí nào đâu. - Chim A: Mắt cậu để đi đâu vậy, lá màu xanh mơn mởn kìa . - Chim B: Màu vàng như sắp lìa khỏi cành, vậy mà cậu cứ bảo xanh. Cậu không có mắt thì có.” Hãy đóng vai hai con chim và nghĩ ra đoạn kết để xử lí tình huống trên. Học sinh đã nghĩ ra cách xử lí tình huống như sau: Nhóm 1: Cả hai con chim cãi nhau mãi không giải quyết được đành nhờ một con chim lớn hơn giải quyết vấn đề của hai chú chim non. Các “diễn viên” của nhóm 1 Các “diễn viên” của nhóm 1 Nhóm 2: Giải quyết bằng cách hòa bình, cả hai con chim cùng bàn bạc tìm ra câu trả lời hợp lí. Các “diễn viên” của nhóm 2 Nhóm 3: Một con chim giận dỗi bay đi, con chim ở lại buồn nên bay lên bay xuống nơi bạn mình đã đậu mới nhận ra sự khác biệt của chiếc lá. Nó đã bay đi tìm bạn về và nói cho bạn hiểu về sự khác nhau đó. Các “diễn viên” của nhóm 3 Nhóm 4: Hai con chim cãi nhau, chuẩn bị đánh nhau, rồi hai con chim nhảy lên nhảy xuống ở hai vị trí khác nhau mới nhìn thấy hai mặt của chiếc là có hai màu khác nhau. Cả hai cùng hiểu ra vấn đề. Các “diễn viên” của nhóm 4 Sau đó giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, nhận xét về cách xử lí tình huống của các nhóm, rút ra bài học qua tình huống trên, trao giải cho nhóm có diễn xuất hay nhất. Đại diện nhóm nhận phần thưởng Tình huống trên muốn gửi tới học sinh một thông điệp rất ý nghĩa. Trong cuộc sống, mỗi người có một cách nhìn nhận vấn đề khác nhau, đừng đem suy nghĩ của mình áp đặt cho người khác, buộc người khác phải theo ý mình một cách máy móc. Chúng ta vẫn có thể nêu lên ý kiến của mình nhưng đồng thời phải đặt mình vào vị trí của người khác khi họ bất đồng quan điểm với mình thì mối quan hệ với mọi người sẽ hài hòa hơn, cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn. Ngoài ra, qua tình huống giúp học sinh rèn luyện khả năng giải quyết xung đột trong cuộc sống thường ngày và trong học tập. Sau khi sử dụng phương pháp này, những mâu thuẫn nhỏ trong học tập và cuộc sống thường ngày của học sinh được xử lí theo hướng tích cực. Đặc biệt hai bạn Trang và Linh đã hòa đồng với nhau, xin được ngồi vị trí cũ, tất cả các hoạt động của nhóm đều phối hợp thực hiện rất hài hòa nhịp nhàng. 2. Phương pháp kể chuyện tích cực a. Khái niệm Phương pháp kể chuyện tích cực là phương pháp giáo viên kể chuyện nhưng yêu cầu người nghe phải đặt tên cho câu chuyện và trả lời các câu hỏi có liên quan. b. Tác dụng Phát huy tính tích cực trong hoạt động và học tập. Phát triển tư duy, trí thông minh cho học sinh. Tạo không khí vui vẻ thoải mái, có tác dụng giáo dục cao nhưng nhẹ nhàng. Nâng cao vốn hiểu biết về xã hội, cuộc sống cho học sinh. c. Các bước thực hiện Chọn những câu chuyện ngắn, hấp dẫn, có nội dung phù hợp với mục đích cần đạt được. Khi kể không nói tên chuyện, có thể đặt câu hỏi có liên quan đến các tình huống trong chuyện. Kết thúc câu chuyện, yêu cầu học sinh đặt cho câu chuyện vừa nghe khoảng ba tên theo các cách thể hiện khác nhau: cụ thể, hình ảnh, khái quát theo chủ đề d. Những chú ý khi giáo viên thực hiện phương pháp kể chuyện tích cực Lựa chọn câu chuyện có nội dung hấp dẫn, có tính giáo dục cao, phù hợp với lứa tuổi của học sinh và mục đích giáo dục. Chuẩn bị sẵn khoảng ba tên chuyện và hệ thống câu hỏi (hợp lí với các tình tiết diễn biến của câu chuyện). Khai thác những mặt tích cực của câu chuyện. Nhìn nhận đánh giá nội dung câu chuyện dưới những góc độ khác nhau. Khi kể cần lưu loát, sử dụng ngữ điệu. Sau khi kể xong cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ tìm cách đặt tên. Ví dụ 1: Giáo viên kể một câu chuyện Trong năm học 2011-2012, tôi được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp 10A1, là một lớp có nhiều học sinh cá biệt, nhiều học sinh lưu ban, có hoàn cảnh đặc biệt. Nhận thức được sự khó khăn trong việc giáo dục những học sinh này, tôi đã tìm hiểu, sưu tầm và kể cho các em nghe một câu chuyện có thật về một học sinh cá biệt. Yêu cầu cả lớp lắng nghe và đặt tên cho câu chuyện. Trong quá trình kể cô sẽ hỏi các em về diễn biến của câu chuyện. Thời kỳ "oai hùng" của Nguyễn Vũ Xuân Trường kéo dài khá lâu nhưng "lừng lẫy" nhất là lúc học lớp 10A4 Trường THPT Hùng Vương (TPHCM). Đá banh trong sân trường, đi học trễ, cúp cua, leo tường, phá bàn ghế, đốt pháo trong nhà vệ sinh, đánh nhau... là những chuyện thường xuyên có mặt Trường. Học sinh đánh nhau không lạ, nhưng phải huy động lực lượng Cảnh sát 113 vào cuộc can thiệp thì quả thực... mới nghe lần đầu. "Mà lạ, cái gì càng cấm thì càng muốn làm bằng được", cho nên dù không muốn nhưng thầy chủ nhiệm phải đặt bút phê vào học bạ của Trường: "Vi phạm nội quy có hệ thống". Nói là lớp 10 nhưng ngay từ hồi Trường còn bé, người mẹ tội nghiệp của Trường đã nhiều lần phải tới trường với tư cách không lấy gì làm tự hào cho lắm - phụ huynh của một học sinh cá biệt. Luôn tiên phong trong các trò nghịch ngợm, Trường cũng "tiên phong" trong hàng ngũ đội sổ của lớp - một kỷ lục mà nhiều năm liền anh không chịu "nhường" cho ai. Năm lớp 10, điểm của Trường chỉ vừa đủ để không bị lưu ban, tức chỉ 3,5 điểm và hơn một tí cho tất cả các môn. Cho rằng đây là một học sinh không thể cải hóa, ban giám hiệu "mời" Trường ra khỏi trường ngay đầu năm lớp 11. Trường bắt đầu một chặng đường ba năm dang dở: nửa tháng trời phụ giữ xe ở chợ Hoàng Hoa Thám, bị đuổi khỏi trường dạy nghề Lý Tự Trọng vì đánh nhau, rồi làm sắt mỹ nghệ... (Câu hỏi 1: Theo em, sau ba năm dang dở Trường có cảm nhận như thế nào?) Một ngày nọ, khát vọng trở lại trường học cháy bỏng trong Trường. Ba năm bỏ bê đèn sách, mất kiến thức căn bản, và 20 tuổi để bắt đầu đi học trở lại... đó là những khó khăn thách thức Trường trên con đường mới. Ngay khi còn chưa biết phải làm gì thì cô Trần Thị Thân - cô giáo chủ nhiệm của anh tại Trung tâm giáo dục thường xuyên Chu Văn An, đã dìu anh những bước đầu tiên khó nhọc. Ngoài giờ học trên lớp, giờ ra chơi, sau giờ tan học, hay những buổi tối tại nhà, cô và trò đã từng bước khuất phục sự "khiêu khích" đáng ghét của môn Hóa - môn yếu nhất của Trường. Không chỉ bài vở, từ những cái nhỏ nhất như ăn mặc, đầu tóc, những trăn trở về tâm lý, cô Thân luôn là nơi mà Trường "tìm về" những lúc người mẹ tảo tần bận bịu cho việc kiếm sống. Một lần bị cô phạt đứng ở góc lớp cả tiết học vì không thuộc bài, lần đầu tiên Trường ý thức về lỗi lầm của mình. (Câu hỏi 2: Hãy dự đoán xem kết quả học tập của cậu học trò lớn tuổi này sẽ như thế nào?) Cứ thế, ngoài việc đi làm thêm, Trường lại vùi đầu vào sách vở. Một học kỳ, rồi thêm một học kỳ nấu sử sôi kinh, từ chỗ mất căn bản, anh học trò lớn tuổi nhất lớp này đã tiến thẳng lên hạng nhất của lớp, điểm số môn nào cũng cao vút, và còn đạt được số điểm cao nhất trong kỳ thi học sinh giỏi bổ túc môn toán cấp thành phố. Nhưng điều mà có lẽ chưa một học sinh cá biệt nào có thể làm được chính là việc giành được số điểm cao nhất trong kỳ thi tuyển sinh vào Trường ĐH Y Dược TPHCM năm 2000 với 26,5 điểm (năm đó, Trường có điểm thi ba môn cao nhất trường chưa tính ưu tiên khu vực, đối tượng và điểm thưởng). Vừa học vừa làm thêm, giành học bổng từ Pháp, Ý... Trường vượt qua được 6 năm đại học. Được nhận về khoa Nhiễm Bệnh viện Nhi đồng 2 TPHCM, tương lai rộng mở trước mặt bác sĩ Trường. Dù đã từng là một học sinh cá biệt, dù học bổ túc... nhưng cánh cửa tương lai không hề đóng lại với những thanh niên đầy quyết tâm và được thầy cô tận tình dìu dắt. (Theo Hà Ánh – Báo Mực tím) Yêu cầu học sinh đặt tên cho câu chuyện: Sự thức tỉnh của một học sinh cá biệt, học sinh cá biệt trở thành thủ khoa đại học, tương lai rộng mở với những người có nghị lực Qua câu chuyện, học sinh nhất là những học sinh cá biệt nhận thức rõ rằng, nếu mình có quyết tâm, có nghị lực thì cánh cửa tương lai sẽ rộng mở. Mình phải cố gắng thực hiện quyết tâm đó khi còn chưa muộn. Sau khi sử dụng phương pháp này, tôi đã thấy được sự chuyển biến tích cực, từ việc các học sinh cá biệt nghỉ học thường xuyên, không xin phép, đến xin phép khi vắng học và sau đó các em đi học đầy đủ. Các em đã có cố gắng học bài và làm bài đầy đủ từ đó kết quả học tập có sự tiến bộ, phong trào thi đua của lớp được nâng lên. Ngoài ra, các em cũng tự tin, cởi mở hơn khi giao tiếp với bạn bè, thầy cô, mạnh dạn hỏi về những vấn đề mình chưa hiểu rõ. Ví dụ 2: Giáo viên kể câu chuyện Trong năm học 2012-2013, khi được phân công chủ nhiệm lớp 10A2, tôi đã áp dụng phương pháp này vào tuần học thứ mười. Sau khi lớp đạt hạng nhất trong thi đua của trường, như đã hứa với học sinh ở các tuần trước đó, tôi đã kể cho các em nghe một câu chuyện. Yêu cầu cả lớp lắng nghe và đặt tên cho câu chuyện. Trong quá trình kể cô sẽ hỏi các em về diễn biến của câu chuyện. Khi giáo viên thông báo như vậy sẽ tập trung được chú ý của học sinh vào câu chuyện của mình. Một buổi tối, Sue cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo, cô đùng đùng ra khỏi nhà. Trong lúc đang lang thang trên đường, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà. Cùng lúc đó, cô đi ngang qua một quán mì, mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô chợt cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền. Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quầy hàng bèn hỏi: “ Này cô bé, cô có muốn ăn một tô mì không?”. (Câu hỏi 1: Cô bé sẽ trả lời như thế nào?) “ Nhưng nhưng cháu không mang theo tiền” – cô thẹn thùng trả lời. “ Được rồi, chú sẽ đãi cháu – người bán nói – Vào đây, chú nấu cho cháu một tô mì”. Mấy phút sau, chủ quán bưng tới cho cô một tô mì bốc khói. Ngồi ăn được mấy miếng, Sue lại bật khóc. “ Có chuyện gì vậy?” – ông ta hỏi. “ Không có gì. Tại cháu cảm động quá!” – Sue vừa nói vừa lấy tay quẹt nước mắt. “ Thậm chí một người không quen ngoài đường còn cho cháu một tô mì, còn mẹ cháu, sau khi cháu cự cãi đã đuổi cháu ra khỏi nhà. Chú là người lạ mà còn tỏ ra quan tâm đến cháu, còn mẹ cháubả ác độc quá!” – Cô bé nói với người bán mì. (Câu hỏi 2: Chủ quán sẽ nói gì với cô bé khi nghe cô nói về mẹ của mình như thế?) Nghe Sue nói, ông chủ quán thởi dài: “ Này cô bé, sao lại nghĩ như vậy? Chú mới chỉ đãi cháu có một tô mì mà cháu đã cảm động như vậy, còn mẹ cháu đã nuôi cháu từ khi cháu còn nhỏ xíu, sao cháu lại không biết ơn mà còn dám cãi lời mẹ nữa?” Sue giật mình ngạc nhiên khi nghe điều đó. “ Tại sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Một tô mì của người lạ mà mình cảm thấy mang ơn, còn mẹ mình đã nuôi mình hàng bao năm qua mà thậm chí mình chưa bào giờ tỏ ra quan tâm đến mẹ dù chỉ một chút. Chỉ vì một chuyện nhỏ, mình lại cự cãi với mẹ”. Trên đường về, cô thầm nghĩ trong đầu những điều cô sẽ nói với mẹ: “ mẹ ơi, con xin lỗi. Con biết đó là lỗi của con, xin mẹ tha thứ cho con” ( Câu hỏi 3: Các em hãy đoán xem, cô bé sẽ nhìn thấy điều gì khi về đến nhà?) Khi bước lên thềm cửa, cô nhìn thấy mẹ đang mệt mỏi và lo lắng vì đã tìm kiếm cô khắp nơi. Nhìn thấy Sue, mẹ cô mừng rỡ nói: “ Sue, vào nhà đi con. Chắc con đói bụng lắm rồi phải không? Cơm nước mẹ nấu xong nảy giờ rồi, vào mà ăn ngay cho nóng” Không thể kiềm giữ được cảm xúc, Sue òa khóc trong tay mẹ. Yêu cầu học sinh rút ra bài học từ câu chuyện. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta dễ cảm kích với những hành động nhỏ mà một số người xung quanh làm cho chúng ta, nhưng đối với những người thân thuộc, nhất là cha mẹ, chúng ta lại xem sự hy sinh của họ như chuyện đương nhiên. Tình yêu và sự quan tâm lo lắng của cha mẹ là món quà quý giá nhất mà chúng ta được tặng từ khi mới chào đời. Cha mẹ không mong đợi chúng ta trả công nuôi dưỡng, nhưng Liệu có bao giờ cúng ta biết quý trọng sự hy sinh vô điều kiện này của cha mẹ chúng ta chưa? Yêu cầu học sinh đặt tên cho câu chuyện: học sinh đã đặt nhiều tên khác nhau, giáo viên đều ghi lại những tên đó lên bảng, ghi cả tên chuyện mà giáo viên đã chuẩn bị: tô mì của người lạ, tình mẫu tử, chữ hiếu Sau khi thực hiện phương pháp này, tôi nhận thấy học sinh tham gia vào việc trả lời câu hỏi và đặt tên chuyện rất tích cực. Điều này chứng tỏ các em rất chú ý vào câu chuyện tôi kể, rất hào hứng và thoải mái khi tham gia, phát huy được tính tích cực của học sinh. Qua câu chuyện, học sinh được giáo dục về tình cảm gia đình, lòng biết ơn, thái độ ứng xử với đấng sinh thành. Bên cạnh đó, khai thác một tình tiết nhỏ khi cô bé được hỏi có muốn ăn một tô mì không? Cô bé đã trung thực trả lời là cháu không mang theo tiền. Đây là tình tiết giáo dục học sinh về tính trung thực trong cuộc sống ngay cả khi mình rất cần đến nó nhưng vẫn trả lời ngay thẳng không gian dối. 3. Phương pháp tổ chức cuộc thi a. Khái niệm Là một phương pháp tổ chức cho học sinh thành các đội nhỏ thi với nhau một số nội dung mà giáo viên đưa ra theo một tiêu chí cụ thể. b. Tác dụng Tạo được sự đoàn kết trong tập thể, phát hiện những tài năng tiềm ẩn. Giúp học sinh bộc lộ tính cách trong các hoạt động. Tạo hứng thú, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, tự tin trong quá trình thể hiện. c. Những chú ý khi thực hiện Mất nhiều thời gian nên việc thực hiện những công việc chung của buổi sinh hoạt phải tổ chức nhanh gọn. Giáo viên nên quán triệt nội quy lớp cho học sinh trong thời gian 15 phút đầu giờ để dành thời gian cho cuộc thi. d. Quy trình thực hiện Thông báo trước cho học sinh biết nội dung sẽ thi từ tuần trước. Yêu cầu các nhóm chuẩn bị những vật dụng cần thiết như: giấy, bút, Thông báo thể lệ cuộc thi. Tổ chức thi. Kết thúc, nhận xét trao giải. Ví dụ: Cuộc thi vẽ và thuyết trình logo của nhóm. Năm học 2012-2013, khi nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 10A2, sau một vài tuần đầu, tôi nhận thấy tinh thần đoàn kết của lớp chưa cao, chuẩn bị có dấu hiệu chia bè phái khi trình bày ý kiến, khi tham gia các hoạt động của trường, của lớp. Học sinh trong lớp thuộc những trường khác nhau hội tụ về nên chưa có cơ hội hiểu rõ nhau, chưa hòa đồng trong các hoạt động học tập và tham gia các phong trào. Với mục đích đưa học sinh xích lại gần nhau hơn, có cách làm việc theo nhóm và phát hiện ra những năng khiếu tiềm ẩn, tôi đã tổ chức cho các nhóm thi vẽ và thuyết trình logo của nhóm. Giáo viên thông báo cho học sinh biết nội dung sẽ thi từ tuần trước. Thông báo thể lệ cuộc thi: Thời gian cho các nhóm vẽ là 15 phút. Hết giờ là tất cả các nhóm phải dán logo của nhóm mình lên bảng. Mỗi nhóm thuyết trình logo trong vòng 3 phút. Lần lượt các nhóm cử đại diện lên thuyết trình cho logo của nhóm mình. Nhóm nào vẽ đẹp và thuyết trình hay sẽ chiến thắng. Giáo viên nhận xét, đánh giá, trao giải cho nhóm đạt điểm cao nhất. Học sinh trang trí lớp trước khi bước vào cuộc thi, các thành viên nhóm 2 vẽ logo (Học sinh nam trong hình trên đã từng là học sinh cá biệt, giờ đang cùng bạn trang trí lớp để cho cuộc thi thêm phần sinh động) Các thành viên nhóm 1 vẽ logo Đại diện nhóm 2 thuyết trình logo Đại diện nhóm 1 thuyết trình logo Niềm vui khi nhận phần thưởng Đại diện nhóm 4 thuyết trình logo Các thành viên nhóm 3 vẽ logo Qua việc tổ chức cuộc thi này, những học sinh nào có năng khiếu về hội họa sẽ được bộc lộ, đây là những nhân tài lớp có thể chọn để tham gia các phong trào như làm báo tường, Học sinh được rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng thuyết trình và trình bày trước đám đông. Từ những hoạt động như vậy, các thành viên trong lớp có cơ hội hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau và tập thể lớp ngày càng đoàn kết. 4. Phương pháp động não (phương pháp não công) a. Khái niệm về phương pháp động não Phương pháp động não được A. Osborn, người Mỹ đưa ra năm 1938. A.Osborn nhận thấy rằng: “Trong cuộc sống những người giàu trí tưởng tượng có khả năng phát nhiều ý tưởng thì thường bị hạn chế về mặt phân tích, phê phán. Ngược lại, những người giỏi phân tích, phê phán lại hay gặp khó khăn khi phải đề xuất ra những ý tưởng mới. Nếu hai nhóm người này làm việc chung thì họ thường cản trở lẫn nhau; tuy nhiên, nếu biết phương pháp phối hợp hoạt động giữa họ thì kết quả sẽ rất tốt”. Động não là phương pháp tạo ra những ý tưởng mới mẻ về một vấn đề nào đó dựa trên nguyên tắc “khoan hãy phê phán”. Hãy tập hợp tất cả các ý kiến về một vấn đề, sau đó mới đánh giá, chọn ra ý kiến hoặc phương án tốt nhất. Phương pháp này cổ vũ mọi người cùng quan tâm, cùng tham gia và suy nghĩ một cách sáng tạo. Cơ sở của phương pháp là giữa các ý tưởng khác nhau đều có mối liên kết với nhau. Khi một ý tưởng được đưa ra thì sẽ có một hay nhiều ý tưởng khác gắn với nó, cùng chiều hay ngược chiều. Toàn bộ những ý tưởng đó sẽ cho ta cái nhìn tổng thể, để từ đó chọn ra ý tưởng hay hay giải pháp tốt nhất. b. Tác dụng của phương pháp động não Động não là một phương pháp tích cực hóa hoạt động tư duy. Động não là cách tốt nhất để giờ học trở nên cuốn hút. Động não lôi cuốn học sinh tham gia sôi nổi vào quá trình suy nghĩ tích cực và sáng tạo. Động não không chỉ sử dụng trong lớp học mà còn được sử dụng trong cuộc sống mỗi khi gặp vấn đề gì vướng mắc. Động não giúp tìm ra giải pháp cho nhiều vấn đề trước đây chưa giải quyết được bằng các phương pháp khác. c. Ưu điểm Dễ thực hiện, không tốn kém, tạo cơ hội cho tất cả các thành viên tham gia. Huy động được nhiều ý kiến, sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể. d. Những chú ý khi thực hiện Có thể mất nhi
Tài liệu đính kèm: