Tên bài: GƯƠNG CẦU LÕM (tiết 8 theo PPCT)
1. Mục tiêu:
- Nhận biết được ảnh ảo tạo bởi gương cầu lõm.
- Nêu được những tính chất của ảnh ảo bởi gương cầu lõm.
- Biết các bố trí thì nghiệm để quan sát ảnh ảo của một vật tạo bởi gương cầu lõm.
2. Chuẩn bị:
a) Học sinh: Học bài cũ, xem trước bài mới.
b) Giáo viên:
- 6 gương cầu lõm, 6 gương phẳng có cùng kích thước bằng với gương cầu lõm.
- 12 chiếc Pin, 6 nguồn sáng chạy bằng Pin 6 vôn, 6 màn chắn có giá đỡ, 1 chiếc đèn Pin.
của học sinh đúng như các nhà khoa học đã đúc kết: nghe dễ quên, nhìn dễ nhớ, làm dễ hiểu. Chính vì vậy nếu giáo viên phát huy tính tự lực tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong mỗi giờ học cũng góp phần thiết thực nâng cao quá trình tiếp thu bài học của học sinh. Việc dạy học môn vật lý trong trường THCS không những nhằm truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về môn vật lý, mà còn là trang bị cho học sinh những công cụ sắc bén để nghiên cứu thế giới tự nhiên. Vậy vấn đề đổi mới phương pháp môn vật lý là hết sức cần thiết, đặc biệt là đổi mới một giờ học có thí nghiệm thì giáo viên phải làm như thế nào để học sinh tập hợp được các sự kiện quan sát và thực nghiệm vạch ra những dấu hiệu đặc trưng khám phá mối quan hệ từ đó hệ thống hoá và dẫn dắt thành khái niệm định luật nói cách khác giáo viên cần tổ chức những tình huống để học sinh định hướng hành động tự chủ của mình từ đó đạt được hiệu quả tốt nhất. II/- Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 1- Thực trạng: Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy môn Vật lý ở trường THCS Ninh Hải tôi đi sâu vào nghiên cứu chương trình trong quá trình dạy và dự giờ của các đồng nghiệp, tôi thấy: - Học sinh tiếp thu kiến thức còn thụ động thiếu tích cực, thiếu chủ động, thiếu sáng tạo. - Học sinh chỉ biết ngoan ngoãn tiếp nhận những kiến thức trong sách giáo khoa một cách hời hợt chung chung, không chịu tư duy độc lập mà nắm kiến thức như bị gò ép và áp đặt. Do vậy việc nắm kiến thức của học sinh không phải là tự phát mà đó là một quá trình có mục đích rõ ràng, có kế hoạch, có tổ chức chặt chẽ trong một quá trình nổ lực tư duy, trong đó học sinh phải phát huy được tính tự lực, tính tích cực sáng tạo của mình thì mới nắm được những kiến thức chắc chắn và sâu sắc. Trên tinh thần đó tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài cùng với ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, bản thân tôi đưa ra ý kiến nhỏ về vấn đề giúp học sinh tự nắm kiến thức trong một giừo vật lý có thí nghiệm nhằm phát huy tính tích cực tự lực sáng tạo của học sinh trong một giờ học vật lý, qua đó góp phần xây dựng phong phú dạy học theo phương hướng lấy học sinh làm trung tâm. Từ đó đáp ứng được sự phát triển của đất nước nói chung và của ngành giáo dục nói riêng. 2- Kết quả, hiệu quả của thực trạng: Từ thực tế việc tiếp thu bài học cũng như tiếp nhận kiến thức của học sinh tôi thấy còn hạn chế rất nhiều, tỷ lệ học sinh yếu kém còn cao. Với thực trạng như vậy tôi đã soạn thảo đề tài: Đổi mới phương pháp dạy học một giờ Vật lý có thí nghiệm nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức: * Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 7A, 7B, 7C Trường THCS Ninh Hải - Tĩnh Gia. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Qua quá nghiên cứu và tìm hiểu tôi nhận thấy rằng nghiên cứu thực chất việc tự lực nắm vững kiến thức Vật ký và phát huy tính tích cực, tự lực chủ động, sáng tạo của học sinh trong một giờ học Vật lý. * Phạm vi nghiên cứu: Do những điều kiện khách quan và chủ quan đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu một hoạt động có liên quan trực tiếp đến công tác giảng dạy bộ môn Vật lý nói chung và một giờ Vật lý nói riêng trong trường THCS. * Phương pháp nghiên cứu: - Thực nghiệm. - So sánh trò chuyện. B- Giải quyết vấn đề: I- Các giải pháp thực hiện: Để đạt được kết quả tốt trong tất cả các môn học nói chung và môn Vật lý nói riêng thì một trong các yếu tố quan trọng nhất là người học phải có hứng thú đặc biệt là một Vật lý mà mỗi sự vật hiện tượng đều phải thực hiện một yếu tố, một bản chất nào đó của một quy luật tự nhiên trong quá trình dạy học việc đổi mới phương pháp là vô cùng cần thiết sao cho vận dụng các phương thức trong từng bài, từng thí nghiệm, từng phần phải phù hợp với đối tượng học sinh mà mục đích cuối cùng là học sinh chủ động làm việc tích cực hoạt động trong mỗi thao tác trong mỗi giờ học đặc biệt đối với giờ học có tiết học Vật lý mà mục đích sử dụng các thí nghiệm vật lý trong quá trình dạy học thí nghiệm Vật lý được sử dụng các mục đích sau: 1- Thí nghiệm Vật lý được sử dụng để xây dựng kiến thức mới. 2- Thí nghiệm Vật lý được sử dụng để rèn luyện cho học sinh khả năng thực hành vận dụng kiến thức thực tế vào cuộc sống. 3- Thí nghiệm Vật lý là thí nghiệm có tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện tư bồi dưỡng tư pháp nghiên cứu khoa học cho học sinh. 4- Thí nghiệm Vật lý dùng để đánh giá khả năng kiến thức của học sinh. 5- Thí nghiệm Vật lý được sử dụng để rèn luyện cho học sinh những đặc tính tốt như tinh thần sáng tạo tính cẩn thận, kiên trì ... * Phân loại thí nghiệm: - Thí nghiệm khảo sát. - Thí nghiệm chứng minh. - Thí nghiệm đồng loạt. II- Biện pháp và việc làm cụ thể: Bước đầu giúp học sinh nắm kiến thức Vật lý trong một giờ dạy có thí nghiệm thực tế là điều kiện quyết định việc lựa chọn phương pháp tác động đến đối tượng học sinh một cách phù hợp để một giờ dạy Vật lý có thí nghiệm ở trường THCS đạt hiệu quả bản thân người giáo viên phải quan tâm đến hai vấn đề cơ bản sau. - Một là: Xác định tiến trình hoạt động dạy học cụ thể. - Hai là: Tổ chức các tình huống học tập (Định hướng các hoạt động học tập của học sinh). 1- Xác định tiến trình hoạt động cụ thể: Việc xác định phương pháp dạy học cụ thể đối với mỗi tiết học Vật lý là quan trọng để đạt được mục đích của bài giáo viên phải đòi hỏi học sinh hành động yêu cầu đặt ra đòi hỏi học sinh thu nhập tái tạo theo cái sẵn có phải tham gia tìm tòi phát hiện giải quyết vấn đề là tiết dạy thực nghiệm nên cần phải hiểu rõ nội dung của phương pháp này phải trực tiếp cho học sinh được tham gia thí nghiệm qua đó phải giải quyết được những vấn đề mà giáo viên đặt ra. Muốn vậy cần phải xác định rõ mục tiêu của tiết dạy là gì, làm thế nào để giác ngộ vấn đề định hướng nhiệm vụ, nhận thức của học sinh, kiến thức cần thiết của học sinh. Tóm lại xác định tiến trình hoạt động cụ thể cần vạch rõ 3 nội dung chính sau: - Mục tiêu của tiết dạy. - Nhiệm vụ của học sinh. - Kiến thức xuất phát cần thiết. 2- Tổ chức tình huống: Đây là một vấn đề then chốt trong giờ Vật lý có thí nghiệm bởi vì khác với giờ dạy, dùng thí nghiệm để chứng minh tiết dạy Vật lý có thí nghiệm yêu cầu học sinh phải thao tác tư duy suy luận để giải quyết các vấn đề mà giáo viên nêu ra. Do vậy để tiết học có hiệu quả cao, phát huy tính tối đa, tính tích cực của học sinh cần phải tiến hành triệt để các bước sau. - Kỹ năng quan sát: Bước đầu định hướng cho học sinh biết quan sát một cách có mục đích, có kế hoạch trong một trường hợp có thể học sinh tự vạch ra kế hoạch quan sát chứ không tuỳ tiện ngẫu nhiên giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trao đổi kỹ trong nhóm về mục đích và kế hoạch quan sát rồi mới quan sát. - Kỹ năng thu nhập và xử lý thông tin: Thu được từ quan sát thí nghiệm nên luôn chú trọng việc thu được lập thành bảng biểu một cách trung thực việc xử lý các thông tin dự liệu phải theo những phương pháp xác định thực chất là phương pháp suy luận từ những dữ liệu, số liệu cụ thể suy ra những kết luận chung hay từ những tích chất, quy luật chung mà suy ra những biểu hiện cụ thể trong khi hình thành ở mỗi lớp phải chú trọng nhiều đến phương pháp suy luận quy nạp chưa dùng phương pháp suy diễn dựa trên những kiến thức toán học phức tạp trong giai đoạn vận dụng kiến thức có sử dụng phương pháp suy luận, lô gích chú trọng phương pháp ngôn ngữ của học sinh yêu cầu học sinh sử dụng những ngôn ngữ, thuần ngữ khoa học để giải quyết các hiện tượng, các quá trình rèn luyện kỹ năng, diễn đàn rõ ràng chính xác bằng ngôn ngữ Vật lý thông qua việc thảo luận nhóm và việc trình bày các kết quả quan sát nghiên cứu tạo điều kiện để học sinh được làm, được nói nhiều hơn. Tóm lại để dạy có hiệu quả cao phải phát huy tính tích cực của học sinh cần tiến hành triệt để các bước sau: Bước 1: Chia học sinh trong lớp theo nhóm. Chỉ có chia lớp thành 5 - 6 nhóm, các học sinh trong nhóm được phân bổ học sinh giỏi có, khá có, trung bình có và yếu kém có. Bước 2: Cách bố trí thì nghiệm trong tiết dạy. - Đối với những tiết dạy có thí nghiệm khó (phức tạp) thì người giáo viên phải xác định vị trí đặt thí nghiệm như thế nào mà tất cả các học sinh giám sát được, sau đó cho đại diện của từng nhóm thay nhau làm và ghi kết quả của các nhóm cách làm của nhóm lên phiếu học tập của nhóm đó từ đó cho đại diện của nhóm báo có hoặc dùng máy chiếu để các nhóm so sánh. Ví dụ: Như trong bài (cân bằng lực - toán tính) Vật lý 8. (ở thí nghiệm H5.3) thí nghiệm kiểm tra. Đối với thí nghiệm này trước hết giáo viên đưa ra mục đích của việc thí nghiệm cách lắp đặt thí nghiệm và các bước tiến hành thí nghiệm. Sau đó cho đại diện của các nhóm thay nhau lên làm và ghi kết quả lên bảng và từ đó học sinh đưa ra nhận xét của nội dung này. Đối với những tiết dạy có thí nghiệm đơn giản và có nhiều bộ thí nghiệm giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tiến hành làm thí nghiệm đồng loạt theo tổ nhóm. Sau đó giáo viên dùng hệ thống câu hỏi lên bảng phụ được treo trên bảng, đồng thời phát phiếu học tập cho từng nhóm: Sau khi các nhóm làm thí nghiệm đồng thời các thành viên trong nhóm thảo luận và ghi kết quả vào phiếu học tập, từ đó ta có thể thu phiếu của các nhóm (nếu có máy chiếu thì ta có thể đưa lên máy chiếu) nếu không thì ta có thể đưa ra kết quả của một, hai nhóm để cho cả lớp thảo luận và dưới sự điều hành của giáo viên. Bước 3: Tổ chức học tập (thảo luận) để đạt được hiệu quả tốt phải phát huy, phát triển được năng lực tìm tòi sáng tạo của học sinh trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức giáo viên cần hình thành 4 nội dung sau. * Đặt vấn đề hay nêu giả thiết: Vấn đề chứa đựng câu hỏi, nhưng đó là những câu hỏi về những cái gì chưa biết, câu trả lời chứa có phải xuất hiện cái mới cái tím tòi sáng tạo mới xây dựng được, chứ không phải nhớ lại những gì đã có. * Tiến hành thí nghiệm để tìm tòi hay kiểm tra giả thiết quan sát diễn biến của hiện tượng ghi lại các kết quả thí nghiệm. * Tổ chức các tái hiện quan sát, ghi chép được ở thí nghiệm sử dụng các thao tác tư duy, các suy luận lô gíc đẻ vạch ra các nét bản chất. * Củng cố sự lĩnh hội kiến thức của học sinh vận dụng kiến thức và thực tiễn tuy nhiên việc tổ chức hoạt động học tập đối với các tiết dạy cần phải kết hợp lồng ghép 4 nội dung trên một cách hợp lý theo một trình tự nhất định, bởi hệ thống câu hỏi nêu vấn đè mà giáo viên đã chuẩn bị. Ví dụ: Khâu tổ chức học tập đối với tiết dạy: Bài 19: Sự nổi vì nhiệt của chất lỏng (Vật lý lớp 6). 1- Câu hỏi có thể đưa ra: Khi đun nóng một ấm nước đầy liệu nước có tràn ra ngoài không vì sao. Không yêu cầu học sinh trả lời. Để giải quyết được vấn đề này: Bài hôm nay. ? Có hiện tượng gì xảy ra với mực nước trong ống thuỷ tinh khi ta đặt bình vào chậu nước nóng: H19.2 (SGK) Vật lý 6. ? Nếu sau đó ta đặt bình cầu vào nước lạnh thì có hiện tượng gì xảy ra giáo viên không yêu cầu học sinh trả lời mà học sinh dự đoán. ? Em có nhận xét gì về sự nở vì nhiệt của ba chất lỏng: Nước, rượu và dầu (H19.3). 2- Giáo viên cùng học sinh làm thí nghiệm giải quyết vấn đề đối với mỗi thí nghiệm của nhóm học tập, cần phải làm thí nghiệm và quan sát, ghi chép các kết quả thí nghiệm và chính từ các kết quả thí nghiệm bằng suy luận các thao tác tư duy, yêu cầu học sinh phải vạch ra những nét bản chất của bài đó là: * Chất lỏng nở ra khi nóng lên, co lại khi lạnh đi. * Các chất lỏng khác nhau nở vì nhiệt khác nhau. Và thông qua đó cho học sinh trả lời các câu hỏi ở phần vận dụng của bài và làm các bài tập trắc nghiệm ở bài tập dưới đây tôi xin được trình bày một bài sau cụ thể. III/- Bài soạn một tiết dạy vật lý có thí nghiệm: Ngày soạn 22 tháng 10 năm 2005 Tên bài: Gương cầu lõm (tiết 8 theo PPCT) 1. Mục tiêu: - Nhận biết được ảnh ảo tạo bởi gương cầu lõm. - Nêu được những tính chất của ảnh ảo bởi gương cầu lõm. - Biết các bố trí thì nghiệm để quan sát ảnh ảo của một vật tạo bởi gương cầu lõm. 2. Chuẩn bị: a) Học sinh: Học bài cũ, xem trước bài mới. b) Giáo viên: - 6 gương cầu lõm, 6 gương phẳng có cùng kích thước bằng với gương cầu lõm. - 12 chiếc Pin, 6 nguồn sáng chạy bằng Pin 6 vôn, 6 màn chắn có giá đỡ, 1 chiếc đèn Pin. 3. Tổ chức hoạt động dạy trên lớp: a) Kiểm tra bài cũ: Hãy nêu tính chất của ảnh tạo bởi gương cầu lồi? b) Giảng bài mới: * Hoạt động 1: Đặt vấn đề (2') - Giáo viên cho học sinh quan sát gương cầu lõm. Các em có nhận xét gì về bề mặt của loại gương này? - Vậy những loại gương mà có bề mặt lõm hay mặt phản xạ là mặt trong của một phần hình cầu người ta gọi là gương cầu lõm và các tình chất tạo bởi gương cầu lõm như thế nào? Hôm nay ta nghiên cứu bài: Gương cầu lõm. * Hoạt động 2: (15') Nghiên cứu ảnh của một vật tạo bởi gương cầu lõm Hoạt động của thầy Hoạtđộng của trò Phần ghi của trò ? Để biết ảnh của vật tạo bởi gương cầu lõm có tính chất như thế nào? ta nghiên cứu phần thứ nhất. - GV: Hướng dẫn các dụng cụ thí nghiệm. - GV: Hướng dẫn cách tiến hành thí nghiệm. Yêu cầu: HS trả lời các câu hỏi sau? HS thí nghiệm theo nhóm học tập và rút ra nhận xét. - ảnh quan sát được trong gương. - Độ lớn của ảnh so với vật. I. ảnh tạo bởi gương cầu lõm. 1. Thí nghiệm: Hình 8.1 (SGK) ? ảnh tạo bởi gương cầu lõm có tính chất như thế nào? ? ảnh của vật tạo bởi gương cầu lõm như thế nào so với ảnh tạo bởi gương phẳng? GV: Cho các nhóm nêu các kết quả thông qua thí nghiệm. ? Qua các thí nghiệm trên em hãy tìm từ thích hợp hoàn thành lời kết luận sau: GV: Cho các nhóm lên điền vào bảng phụ. - GV: Đây chính là nội dung phần kết luận 1: ảnh tạo vởi gương cầu lõm. So sánh sự giống và khác nhau giữ ảnh tạo bởi gương cầu lõm so với gương phẳng. HS: Nhắc lại nội dung kết luận. - Chùm tia sáng song song. - Chùm tia sáng hội tụ - Chùm tia sáng phân kỳ. 2. Kết luận * Hoạt động 3: (15') Nghiên cứu sự phản xạ ánh sáng trên gương cầu lõm Hoạt động của thầy Hoạtđộng của trò Phần ghi của trò - GV: Dùng đèn chiếu lên bảng cho HS nhận dạng 3 loại chùm sáng. ? Vậy sự phản xạ ánh sáng trên gương cầu lõm như thế nào? ? Khi chiếu chùm tia tứi song song qua gương cầu lõm thì chùm tia phản xa có đặc điểm gì? Ta đi làm thí nghiệm sau: - GV: Nêu dụng cụ thí nghiệm. - GV: Hướng dẫn cách tiến hành thí nghiệm. - GV: Yêu cầu HS quan sát chùm tia phản xạ có đặc điểm gì? - GV: Qua thí nghiệm trên em hãy tìm từ thích hợp hoàn thành lời kết hợp sau: - GV: Cho HS nhắc lại nội dung phần kết luận trên. - GV: Dựa vào tính chất các em vừa được nghiên cứu: Em hãy trả lời câu hỏi sau: (C4) - GV: Vậy đối với chùm tia tới phân kỳ khi gặp gương phẳng thì chùm tia phản xạ có đặc điểm như thế nào? - GV: Hướng dẫn HS tương tự như thí nghiệm trên nhưng thay chùm tia tới song song bằng chùm tia tới phân kỳ tại một điểm trước gương. - GV: Chùm tia phản xạ có đặc điểm gì? Qua thí nghiệm trên em hãy tìm từ thích hợp để hoàn thành lời kết luận sau: - GV: Đây chính là nội dung phần kết luận. - GV: Cho HS đọc lại nội dung phần kết luận. HS: Học sinh tiến hành thì nghiệm theo nhóm học tập. - Chùm tia phản xạ hội tụ 1 điểm trước gương. HS lên điền vào bảng phụ "Hội tụ". HS thảo luận trả lời. HS tiến hành thí nghiêm theo nhóm và rút ra kết luận. - Chùm tia phản xạ song song. HS thảo luận và điền vào bảng phụ. HS quan sát và thảo luận về cấu tạo của pha đèn pin. Cách điều chỉnh pha đèn so với vị trí của bóng đèn thích hợp để thu được chùm phản xạ song song từ pha đèn chiều ra. II. Sự phản xạ ánh sáng trên gương cầu lõm. 1. Đối với chùm tia tới song song. a) Thí nghiệm: Hình 8.2 (SGK) b. Kết luận: 2. Đối với chùm tia tới phân kỳ. a. Thí nghiệm: Hình 8.4 (SGK) b. Kết luận: Hoạt động 4: (10') Vận dụng - củng cố - hướng dẫn về nhà Hoạt động của thầy Hoạtđộng của trò Phần ghi của trò - GV: Vậy để vận dụng các tính chất của gương cầu lõm trong đời sống như thế nào? - GV: Cho HS quan sát chiếc đèn pin. - Pha đèn. - Cách điều chỉnh pha đèn để tạo ra các chùm sáng song song, hội tụ, phân kỳ. - GV: Vận dụng các kết quả trên cho HS trả lời câu hỏi C6, C7. - GV: Cho HS nhắc lại nội dung chính của bài và đọc phần ghi nhớ. - GV: Treo bảng phụ nội dung của phần ghi nhớ. - GV: Dặn dò HS học bài cũ và làm các bài tập vở bài tập 8.1; 8.2; 8.3. III- Vận dụng: 1. Tìm hiều đèn pin. Hình 8.5 (SGK) a) Vận dụng: Câu 1: Chọn câu trả lời đầy đủ nhất. Gương cầu lõm có thể tạo ra ảnh. A. ảo, lớn hơn vật. B. Thật. C. ảnh lớn hơn vật khi vật đặt gần sát gương, ảnh thật khi vật ở xa gương. D. Hứng được trên màn chắn. Câu 2: Chọn nội dung trả lời đúng nhất. Chiếu một chùm sáng song song lên một gương cầu lõm thì chùm sáng phản xạ là ............................................. A. Chùm sáng hội tụ, điểm hội tụ này ở trước gương. B. Chùm sáng song song. C. Chùm sáng gồm các tia sáng trực tiếp giao nhau một điểm. D. Chùm sáng phân kỳ. C- Kết luận: I- Kết quả nghiên cứu: 1- Với phương pháp giảng dạy như trên, bằng một số kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu giảng dạy tôi đã thu được kết quả cụ thể như sau: Lớp 7A; Số học sinh hứng thú học tập môn Vật lý là: 100%. Trong đó: 90% học sinh nắm được bài tại lớp. Lớp 7B: Số học sinh hứng thú học tập môn Vật lý là: 100%. Trong đó: 95% học sinh nắm được bài tại lớp. Lớp 7C: Số học sinh hứng thú học tập môn Vật lý là: 100%. Trong đó: 100% học sinh nắm được bài tại lớp. Nếu so sánh với năm học 2004-2005 thì số học sinh yêu thích học môn Vật lý có tăng đáng kể, tỷ lệ học sinh nắm bắt được nội dung tăng lên nhiều tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng lên vượt bậc và nguyên nhân chính là: + Chất lượng trang thiết bị chưa đảm bảo. + Vì thí nghiệm tương đối mới mẻ, phương pháp dạy những giờ Vật lý có thí nghiệm thường giáo viên chỉ sử dụng 1-2 bộ để chứng minh. Chính vì lẽ đó năm học 2005-2006 được sự chỉ đạo của Bộ đặc biệt chỉ đạo sát sao của Phòng và tôi đã mạnh dạn đẩy mạnh vấn đề đổi mới phương pháp khá là triệt để thì thấy đem lại hiệu quả rất cao. 2- Đánh giá chung: áp dụng kinh nghiệm biện pháp trên tôi đã gặt hái được kết quả sau: - Tỷ lệ học sinh ý thức học tập tăng từ 70-100%. - Tỷ lệ học sinh nắm được bài trên lớp tăng 70-95%. - Tỷ lệ học sinh khá giỏi đạt 5-50%. - Tỷ lệ học sinh trung bình tăng từ 30-50%. - Tỷ lệ học sinh yếu kém không còn đáng kể. 3- Những ưu, nhược: (tính tích cực cần phát huy hạn chế khắc phục) Bằng những phương pháp và kinh nghiệm trên tôi đã thu được kết quả rất đắng khích lệ tôi mong rằng với phương pháp này có thể nhân rộng ra cho các trường xung quanh và được các đồng nghiệp hưởng ứng với tham vọng của tôi để dạy một giờ Vật lý có thí nghiệm đạt hiệu quả cao nhất. II- Kết luận và kiến nghị: Bằng phương pháp dạy học một giờ Vật lý có thí nghiệm như trên bản thân tôi thấy rằng kết quả học tập của học sinh được nâng lên môt cách rõ rệt bởi vì tiết dạy gây được sự chú ý và hứng thú học tập của học sinh, khả năng ghi nhận và lĩnh hội kiến thức của học sinh nhanh hơn, đồng thời rèn luyện và phát huy tính tích cực, các kỹ năng thao tác thí nghiệm, quan sát và giải thích sự vật hiện tượng. Đồng thời việc giảng dạy không phải chỉ là truyền thị kiến thức cho học sinh mà còn tạo ra cho học sinh thông qua thực hành t hí nghiệm để phát triển năng lực, nhận thức, phát triển tư duy, học sinh từng bước có khả năng tự lập trong mọi tình huống Vật lý. Bản thân tôi chỉ xin trình bày ý kiến trong phạm vi hẹp, chỉ là kinh nghiệm nhỏ được tách ra từ những kinh nghiệm thực tế giảng dạy. Do đó không tránh khỏi những thiếu sót, thiếu tính khách quan, rất mong được lĩnh hội các thông tin đánh giá để tôi tiếp tục nghiên cứu hơn nữ, để cùng đồng nghiệp đạt được mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác giảng dạy. Ninh Hải, ngày 28 tháng 3 năm 2007 Người thực hiện Hà Văn Sơn ý kiến của hội đồng khoa học ......................................................................................................................................... ......................................................................................................................................... ......................................................................................................................................... ............................................................................................
Tài liệu đính kèm: