Biện pháp 4: Tăng cường công tác bồi dưỡng cho giáo viên về nội dung, phương pháp dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và các hoạt đông giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhà trường đã đề ra một chương trình cụ thể theo các phân đoạn thời gian với các nội dung chính như:
- Dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học:
Ở trường tiểu học giáo dục kỹ năng sống có thể thực hiện lồng ghép trong tất các môn học tuy nhiên để định hướng cho giáo viên cách tiếp cận dễ dàng Bộ giáo dục đã ban hành tài liệu hướng dẫn và gợi ý một số kỹ năng cần giáo dục ở một số môn học, địa chỉ cụ thể để thuận lợi cho các cấp quản lý và giáo viên làm cơ sở giáo dục cho học sinh cụ thể:
Ở lớp 1,2, 3: Giáo dục kỹ năng sống được lồng ghép vào các môn: Tiếng việt, đạo đức, TNXH.
Ở lớp 4,5: được hướng dẫn lồng ghép vào các môn: Tiếng việt; Khoa học, đạo đức.
Trong quá trình bồi dưỡng, nhận thấy phương pháp cũng như phương tiện dạy học, điều kiện dạy học đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả nhà trường đã nâng cao vấn đề tập trung đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên thông qua các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn chúng tôi giới thiệu cho giáo viên các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. Thực tế đã cho thấy có phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có thể sử dụng để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong dạy các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Phương pháp dạy học tích cực: Phương pháp dạy học theo nhóm; phương pháp nghiên cứu các trường hợp điển hình; phương pháp giải quyết vấn đề; phương pháp đóng vai; phương pháp trò chơi.
Đồng thời khi tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên nên sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực như: Kỹ thuật chia nhóm; kỹ thuật giao nhiệm vụ; kỹ thuật đặt câu hỏi; kỹ thuật khăn trải bàn; kỹ thuật “phòng tranh”; kỹ thuật “ công đoạn” .
Để việc lồng ghép không tạo thêm áp lực cho giáo viên và quá tải đối với học sinh, chúng tôi đã chỉ đạo tuyệt đối không thêm nội dung vào bài học mà trên cơ sở nội dung của từng bài giáo viên cần dựa căn cứ vào thực trạng của học sinh để xác định các kỹ năng cần lồng ghép giáo dục cho học sinh thông qua nội dung bài học đó bằng cách sử dụng các phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực để cung cấp kiến thức cho học sinh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức tạo hứng thú cho học sinh tham gia vào tiết học sôi nổi đồng thời giúp học sinh nắm và hiểu thêm được các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Như vậy trong một tiết dạy giáo viên đồng thời đã thực hiện được hai mục tiêu đó là trang bị kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho các em.
uả đạt được. Mặc dù nhà trường cũng đã tạo mọi điều kiện nhưng vấn đề cho học sinh đi tham quan dã ngoại, học tập bằng thực tế và tiếp xúc với môi trường xung quanh còn vô cùng hạn chế do kinh phí quá ít ỏi, vì vậy, việc truyền đạt vẫn chủ yếu là trong không gian lớp học, chưa tiến tới người thật, việc thật, vậy nên hiệu quả đạt được vẫn chưa cao, nhận thức về cuộc sống, xã hội của học sinh sẽ vẫn còn mang nặng tính lí thuyết. Tính gương mẫu của một số người lớn, ở một số ít phụ huynh ở đôi lúc, đôi nơi chưa chuẩn mực, điều đó tác động không ít đến hành vi, nhận thức của lứa tuổi các em. Trường tiểu học Lê Lợi đóng trên một địa bàn rất thuận lợi để các em có thể tiếp thu, học hỏi các luồng văn hóa, các ngọn gió mới. Thế nhưng bên cạnh cái tốt, cái văn hóa dĩ nhiên sẽ có cái chưa tốt, cái chưa văn hóa song song xuất hiện, tồn tại, lứa tuổi các em còn nhỏ, chưa có kĩ năng trong chọn lọc và nhìn nhận nên các em dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội . Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào các môn học đã được chỉ đạo thực hiện trong nhiều năm qua nhưng hình thức và nội dunh tích hợp chưa được khai thác triệt để và có hiệu quả trong từ bài học cụ thể. Giáo viên đã bước đầu giáo dục cho học sinh một số kỹ năng phù hợp với từng môn học và từng lớp học tuy nhiên chưa thực sự chú trọng đến việc rèn luyện hành vi, thói quen cho các em trong cuộc sống hằng ngày. Số ít học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, không dám trình bày ý kiến hay đưa ra quyết định của mình mà phần lớn là dựa vào các bạn trong sinh hoạt nhóm, tập thể Thực tế học sinh còn thiếu hụt các kỹ năng: Kỹ năng tự tin, kỹ năng giao tiếp; kỹ năng ứng xử; kỹ năng giải quyết các mâu thuẩn; kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết vấn đề. Kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng hợp tác..... học sinh khi giao tiếp với bạn bè nói trống không, xưng hô chưa lịch sự. Hiện nay kĩ năng sống của các em còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục chúng ta thường mới chỉ quan tâm tới việc dạy chữ và chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm người cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh là một vấn đề khó với các em. Qua điều tra cho thấy tình trạng học sinh nói tục, chửi bậy, đánh nhau vẫn xảy ra. Trong đó các kĩ năng như tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Học sinh ngày càng thực dụng, ích kỉ và lười hoạt động hơn. Giáo viên chủ yếu khai thác các địa chỉ lồng ghép được hướng dẫn theo tài liệu, ít chịu khó nghiên cứu tham khảo, sưu tầm các mẩu chuyện về kỹ năng sống cho học sinh tạo hứng thú cho các em khi tiếp nhận. Hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ở trong nhà trường đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Nhiều giáo viên vẫn coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp từ đó cũng coi nhẹ việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh. Việc tổ chức cho học sinh tham quan, dã ngoại ít( Mới chỉ dừng lại cho học sinh cuối cấp nên các em ít được trải nghiệm những tình huống thực tế hàng ngày. Các tiết học chủ yếu giáo viên tổ chức trong lớp học, chưa mở rộng không gian học tập ra môi trường xung quanh, ra ngoài lớp học. Một vài giáo viên vẫn chưa thực sự đổi mới phương pháp và nhận thức nên chưa chú trọng đến việc giáo dục kỹ năng sống vào bài học mà làm qua loa, đối phó trong giáo án khi bài có nội dung lồng ghép. Các câu lạc bộ trong nhà trường hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Qua kiểm tra, theo dõi việc đánh giá, giáo dục lồng ghép rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh có thực hiện tuy nhiên chưa đúng mức, chưa được xem trọng và hiệu quả đem lại chưa được như mong muốn. Cụ thể qua khảo sát: Một số kỹ năng tự phục vụ của học sinh lớp 1B( GVCN: Trần Thị Vân- năm học 2015 2016 về kỹ năng tự phục vụ: Học sinh biết soạn Sách giáo khoa, vở theo đúng thời khóa biểu; Tự giác học bài(18 em). Chưa tự giác(9 em). Một số kỹ năng ở lớp 3C: Quan sát học sinh thảo luận nhóm trong tiết Tự nhiên& xã hội( 21/32 em tham gia thảo luận tích cực; 9 em còn chưa tích cực hợp tác - Số lần tổ chức, số em tham gia chưa nhiều, cụ thể như sau: Năm học TS HS Nội dung Số lần tổ chức. Số lượng học sinh tham gia 2014-2015 742 1.Tổ chức sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo từng chủ điểm hàng tháng. 4 325 2.Tổ chức thi tìm hiểu ATGT 1 130 3.Tổ chức ngoại khóa theo nội dung đăng ký 3 325 ( Khối 3+4+5) 4.Kể chuyện đạo đức Bác Hồ 0 0 5.Tổ chức chơi các trò chơi dân gian 1 130 Vậy làm thế nào để chỉ đạo tốt giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, tôi xin đưa ra một số giảo pháp , biện pháp sau: 3. Giải pháp, biện pháp: a, Mục tiêu của giải pháp: Mục đích của quá trình chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống là chỉ đạo giáo viên, các đoàn thể, các bộ phận trong nhà trường nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng cơ bản, cần thiết nhất để các em có thể thích ứng với cuộc sống của xã hội thời hiện đại, luôn có những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” Chính vì vậy, mỗi trường học đều tùy thuộc vào điều kiện tình hình thực tế của nhà trường để tổ chức triển khai. Vì thế, để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả cao nhất thì nhà trường cần phải tìm tòi, tự đặt ra các mục tiêu cụ thể và xây dựng các biện pháp chỉ đạo, quản lí hợp lí, để từ đó đề ra chương trình hành động cho nhà trường. Mặt khác, việc đề ra các biện pháp chỉ đạo này, cũng giúp cho người quản lí nắm vững hoạt động quản lí giáo dục kĩ năng sống, hiểu biết sâu sắc về những giá trị sống cần giáo dục cho học sinh, xây dựng đội ngũ và phát triển cơ sở vật chất, tư liệu bồi dưỡng cho giáo viên, hướng tới xây dựng tiền đề và tạo môi trường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phù hợp. b, Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. Biện pháp thứ 1: Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Như chúng ta đã biết kỹ năng sống không phải là ngày một ngày hai, không phải nói giáo dục là có kỹ năng sống ngay mà phải trải qua một quá trình rèn luyện các hành vi được lặp đi lặp lại nhiều lần và trở thành kỹ năng và kỹ năng chỉ có được thực sự khi các em thể hiện các hành vi, kỹ năng đó vào các tình huống cụ thể hay trong cuộc sống hàng ngày. Vì cần phải có kế hoạch cụ thể dài hạn cho từng năm học và kế hoạch phải phân tích được thực trạng kỹ năng sống của học sinh trong nhà trường và đề ra các mục tiêu cụ thể, bắt đầu những kỹ năng thông dụng nhất như: Trước tiên, phải xác định nhu cầu tức các kỹ năng mà học sinh ở trường còn thiếu dựa vào thực trạng thực tế của nhà trường làm căn cứ để xây dựng kế hoạch phù hợp. Bước đầu ta giáo dục cho các em có cách xưng hô, chào hỏi, kỹ năng giao tiếp lịch sự và lễ phép với mọi người. Thành lập các câu lạc bộ: Câu lạc bộ vẽ, khoa học, âm nhạc, thể thao .. để phát triển kỹ năng cho học sinh. Xây dựng các thiết chế văn hóa ứng xử trong nhà trường; xây dựng nội quy trường lớp (có thể gợi ý cho học sinh tham gia đề xuất một số điều trong nội quy của lớp/ trường) và tổ chức cho học nội quy vào đầu mỗi năm học. Đồng thời cần nêu cao tính gương mẫu trong các hoạt động giao tiếp ứng xử hàng ngày trước học sinh như : cách ứng xử giữa cán bộ quản lý - giáo viên; giữa giáo viên– giáo viên ; Giáo viên – học sinh; quản lý, giáo viên và phụ huynh . Biện pháp 2. Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên về kiến thức giáo dục kỹ năng sống. Để việc dạy học giáo dục kỹ năng sống thống qua các môn học có hiệu quả và phù hợp với đối tượng học sinh trong nhà trường, trước tiên cần bồi dưỡng cho giáo viên thông qua hình thức tuyên truyền: Bằng nhiều kênh thông tin khác nhau như: cung cấp văn bản cầm tay, tổ chức sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt tập thể hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt dưới cờ, chương trình phát thanh măng non hay tiết sinh hoạt đội.. chúng tôi đã tổ chức tuyên truyền đến toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên, phụ huynh và học sinh biết về chủ trương của Đảng về đổi mới toàn diện giáo dục. Nội dung tuyên tuyền tập trung nêu và phân tích một số thực trạng thiếu hụt các kỹ năng sống của học sinh, những ảnh hưởng của việc thiếu các kỹ năng sống cơ bản và tầm quan trọng của việc phải dạy lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học. Bồi dưỡng thông qua hình thức tổ chức tập huấn: Muốn thay đổi nhận thức của giáo viên thì trước tiên người cán bộ quản lý, những người đứng đầu nhà trường phải thay đổi, phải đổi mới: thay đổi từ suy nghĩ, hành động, luôn gương mẫu trong mọi hoạt động trước giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh; đổi mới cách làm, cách quản lý: Để mang lại hiệu quả cao trong các buổi tập huấn, trước tiên người cán bộ cần phải nghiên cứu kỹ các văn bản hướng dẫn chỉ đạo của các cấp về việc dạy học lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học để xây dựng kế hoạch tập huấn đầy đủ, chỉ tập trung những nội dung cần thiết và trọng tâm để giáo viên nắm và hiểu được đó là: -,Khái niệm về kỹ năng sống; - Phân loại kỹ năng sống (cần lựa chọn các kỹ năng phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học và thực trạng của nhà trường, những kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh tiểu học như đối với bản thân: sống giản dị, trung thực, tiết kiệm, tự lập; trong quan hệ với người khác: yêu thương, đoàn kết, hỗ trợ, khoan dung, lễ độ, biết ơn; quan hệ với công việc: siêng năng, kiên trì, tôn trọng kỉ luật, năng động, sáng tạo, hợp tác; quan hệ với cộng đồng dất nước: yêu quê hương, đất nước, kỉ năng làm việc nhóm, kỉ năng sinh tồn..., yêu thiên nhiên, hòa hợp với tự nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên...) - Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường ; - Định hướng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường; - Giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở từng khối lớp cụ thể, đồng thời hướng dẫn giáo viên sử dụng một số phương pháp, kỹ thuật dạy học mới Bằng kinh nghiệm sống của mình, qua học hỏi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, những trải nghiệp của bản thân và các tài liệu được cung cấp và xuất phát từ điều kiện thực tế của nhà trường về đội ngũ giáo viên, đối tượng học sinh, đặc biệt là sự phát triển về kinh tế xã hội ở địa phương để hướng dẫn giáo viên cách thiết kế bài soạn: về xây dựng mục tiêu, cách tiếp cận nội dung phương pháp dạy lống ghép kỹ năng sống có hiệu quả. Bồi dưỡng thông qua hình thức tổ chức các chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn: Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ, thăm lớp kiểm tra đánh giá giờ dạy của giáo viên theo định kỳ, đột xuất, đánh giá trên các phương diện như phương pháp truyền đạt, nội dung kiến thức, liên hệ thực tế, không khí lớp học, sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoạt động học tập và đặc biệt chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh có năng lực tham gia vào quá trình đánh giá và tự đánh giá kết quả học tập lẫn nhau.. . Bên cạnh đó, nhà trường và các tổ bộ môn, khối lớp cũng thường xuyên tổ chức các buổi chuyên đề nhằm trao đổi và nâng cao chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống thông qua công tác chủ nhiệm lớp: Mỗi đồng chí giáo viên phải làm tốt vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Là người hiểu rõ học sinh hơn ai hết . Việc hình thành nhân cách và những hành vi tốt, xấu của học sinh đều phụ thuộc vào quá trình giáo dục của GVCN. Chẳng hạn như: học sinh đánh nhau, trốn học chơi điện tử, không học bài, làm bài, nghịch ngợm vvGVCN đều nắm rất rõ. Do đó ngay từ đầu năm học, GVCN phải thường xuyên chú ý đến hành vi của từng học sinh. Qua công việc hàng ngày ,GVCN kiểm tra việc học, việc thực hiện nội qui trường, lớp của học sinh. Từ đó, kịp thời uốn nắn sửa chữa khi học sinh có thái độ, hành vi đạo đức không tốt. Biện pháp 4: Tăng cường công tác bồi dưỡng cho giáo viên về nội dung, phương pháp dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và các hoạt đông giáo dục ngoài giờ lên lớp. Để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhà trường đã đề ra một chương trình cụ thể theo các phân đoạn thời gian với các nội dung chính như: - Dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học: Ở trường tiểu học giáo dục kỹ năng sống có thể thực hiện lồng ghép trong tất các môn học tuy nhiên để định hướng cho giáo viên cách tiếp cận dễ dàng Bộ giáo dục đã ban hành tài liệu hướng dẫn và gợi ý một số kỹ năng cần giáo dục ở một số môn học, địa chỉ cụ thể để thuận lợi cho các cấp quản lý và giáo viên làm cơ sở giáo dục cho học sinh cụ thể: Ở lớp 1,2, 3: Giáo dục kỹ năng sống được lồng ghép vào các môn: Tiếng việt, đạo đức, TNXH. Ở lớp 4,5: được hướng dẫn lồng ghép vào các môn: Tiếng việt; Khoa học, đạo đức. Trong quá trình bồi dưỡng, nhận thấy phương pháp cũng như phương tiện dạy học, điều kiện dạy học đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả nhà trường đã nâng cao vấn đề tập trung đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên thông qua các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn chúng tôi giới thiệu cho giáo viên các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực. Thực tế đã cho thấy có phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học có ưu thế trong việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh có thể sử dụng để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong dạy các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Phương pháp dạy học tích cực: Phương pháp dạy học theo nhóm; phương pháp nghiên cứu các trường hợp điển hình; phương pháp giải quyết vấn đề; phương pháp đóng vai; phương pháp trò chơi. Đồng thời khi tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên nên sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực như: Kỹ thuật chia nhóm; kỹ thuật giao nhiệm vụ; kỹ thuật đặt câu hỏi; kỹ thuật khăn trải bàn; kỹ thuật “phòng tranh”; kỹ thuật “ công đoạn”. Để việc lồng ghép không tạo thêm áp lực cho giáo viên và quá tải đối với học sinh, chúng tôi đã chỉ đạo tuyệt đối không thêm nội dung vào bài học mà trên cơ sở nội dung của từng bài giáo viên cần dựa căn cứ vào thực trạng của học sinh để xác định các kỹ năng cần lồng ghép giáo dục cho học sinh thông qua nội dung bài học đó bằng cách sử dụng các phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực để cung cấp kiến thức cho học sinh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức tạo hứng thú cho học sinh tham gia vào tiết học sôi nổi đồng thời giúp học sinh nắm và hiểu thêm được các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Như vậy trong một tiết dạy giáo viên đồng thời đã thực hiện được hai mục tiêu đó là trang bị kiến thức và giáo dục kỹ năng sống cho các em. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống và dự giờ thăm lớp, tôi đã cùng với các tổ trưởng chuyên môn hướng dẫn giáo viên cách thực hiện lồng ghép sao cho có hiệu quả, tránh tình trạng giáo viên lạm dụng sa đà quá về các nội dung giáo dục kỹ năng mà quên đi phần kiến thức. Ví dụ : Bài: PHÒNG TRÁNH XÂM HẠI” Khoa học lớp 5. Sau bài này, HS có khả năng: - Nêu một số tình huống có thể dẫn đến nguy cơ bị xâm hại và những điểm cần chú ý để phòng tránh bị xâm hại. -Rèn luyện kĩ năng ứng phó với nguy cơ bị xâm hại. -Liệt kê danh sách những người có thể tin cậy, chia sẻ, tâm sự, nhờ giúp đỡ bản thân khi bị xâm hại. * GDKNS: Kĩ năng phân tích, phán đoán các tình huống có nguy cơ bị xâm hại. Kĩ năng ứng phó, ứng xử phù hợp khi rơi vào tình huống có nguy cơ bị xâm hại. Kĩ năng tìm sự giúp đỡ nêu bị xâm hại. II/Chuẩn bị: -Hình trang 38, 39 sgk. Một số tình huống để đóng vai. III/Hoạt động dạy học: Hoạt động của thầy Hoạt động của trò 1. Bài cũ: Thái độ đối với người nhiễm HIV. 2. Bài mới: Giới thiệu bài Phòng tránh bị xâm hại Hoạt động khởi động: Trò chơi “ Chanh chua, cua cắp” B1: Tổ chức và hướng dẫn. B2: Thực hiện như hướng dẫn của giáo viên. GVhỏi: Các em rút ra bài học gì qua trò chơi? Hoạt động 1: Quan sát và thảo luận B1: -Nhóm trưởng điều khiển quan sát các hình 1, 2, 3 trang8 sgk và trao đổi nội dung từng hình. -Nhóm trưởng điều khiển thảo luận câu hỏi tr 38 sgk. B2: GV gợi ý để HS đưa thêm một số tình huống khác với những tình huống các nhóm đang thảo luận. B3: Đại diện từng nhóm trình bày, nhóm khác bổ sung GV kết luận: Hoạt động 2: Đống vai “ Ứng phó với nguy cơ bị xâm hại” B1: GV giao nhiệm vụ cho nhóm. N1: Phải làm gì khi có người lạ tặng quà cho mình? N2: Phải làm gì khi có người lạ muốn vào nhà? N3: Phải làm gì khi có người trêu ghẹo hoặc có hành động gây bối rối, khó chịu với bản thân...? B2: Từng nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung. -GV cho cả lớp thảo luận câu: Trong trường hợp bị xâm hại, chúng ta cần phải làm gì? GV kết luận:. Hoạt động 3: Vẽ bàn tay tin cậy B1: - GV hướng dẫn học sinh Vẽ bàn tay của mình trên giấy và ghi tên một người tin cậy trên một ngón. B2: HS trao đổi hình vẽ của mình với bạn bên cạnh. B3: HS trình bày hình vẽ của mình với cả lớp. GV kết luận: sgv. 3. Củng cố -dặn dò: Hệ thống nội dung đã học Bài sau: Phòng tránh TNGTĐB HS trả lời. HS mở sách. HS cả lớp tham gia. HS thảo luận và trả lời câu hỏi. HS đại diện nhóm. HS thảo luận và trả lời câu hỏi. HS đại diện nhóm. HS tham gia. HS lắng nghe. Qua việc dạy bài Phòng tránh bị xâm hại: Sau khi tiết dạy kết thúc. Chúng tôi tổ chức góp ý, rút kinh nghiệm, phân tich những ưu điểm, hạn chế. Những kỹ năng đã lồng ghép trong bài, những nội dung đạt được về mặt kỹ năng trong ứng xử tình huống... Việc sử dụng các phương pháp, và kỹ thuật dạy học tích cực này rất hiệu quả, đã phát huy được tính tích cực tư duy sáng tạo của học sinh, các em không thụ động mà tham gia vào hoạt động học tập rất tự nhiên. Đối với hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tập trung chỉ đạo tổ chuyên môn, Tổng phụ trách đội xây dựng kế hoạch sinh hoạt ngoài giờ lên lớp phù hợp với từng chủ đề chủ điểm tạo cơ hội cho các em tham gia giải quyết các tình huống trong cuộc sống, giao tiếp ứng xử với bạn bè và thầy cô hay tinh thần làm việc trong nhóm . Nội dung và hình thức cần được thay đổi tránh lặp đi lặp lại hình thức dẫn đến các em nhàm chán, không thu hút sự tham gia của học sinh: ví dụ: Tháng 9, 10: Chủ đề tìm hiểu truyền thống nhà trường chúng ta có thể hướng dẫn các em tham quan cảnh quan nhà trường, phòng truyền thống, giới thiệu về khuôn viên trường lớp , những thể hệ cán bộ quản lý qua các thời kỳ hay những thành tích đã đạt được từ khi thành lập và giáo viên có thể chia theo từng nhóm để học sinh quan sát sau đó yêu cầu học sinh ghi chép hoặc báo cáo lại các thông tin đã thu thập được. Bên cạnh đó tổ chức cho học sinh ở tất cả các khối lớp thi Rung chuông vàng, thi Kể chuyện theo sách hay Hái hoa dân chủ Qua các hoạt động này không những các em được mở mang kiến thức về các lĩnh vực mà các kỹ năng của học sinh được tôi luyện và phát triển. Biện pháp 5. Bồi dưỡng cho HS về phong cách học, phương pháp tự học, phương pháp làm việc với tài liệu học tập và với đồ dùng học tập và năng lực tham gia các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội. Trong 4 nội dung giáo dục mà tổ chức Unessco đề ra thì có ba nội dung đó là “học để biết, học để làm, và học để chung sống ". Việc đào tạo cho các em năng lực tự học và khả năng làm việc nhóm cũng có thể là một kĩ năng để các em “biết”, và để cộng tác. Muốn làm được điều này, từ phía nhà trường cần phải có các chương trình hành động cụ thể: tổ chức các cuộc thi tìm hiểu mang tính thời sự, thi đua trực tiếp giữa các khối lớp, đề ra nhiều chủ đề dàn trải trong các tháng , chỉ đạo giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện ở từng khối lớp. Sau khi có chương trình hành động, các giáo viên hướng dẫn, với vai trò là người chỉ đạo, sẽ cho các em lựa chọn hình thức, cách thức tham gia, cho học sinh thành lập nhóm, lập ra ban chỉ đạo nhóm và đề xuất hướng thực hiện. Giáo viên sẽ giám sát quá trình các em thực hiện (chứ không làm thay), đồng thời sẽ có những góp ý, chỉ dẫn hợp lí để giúp đỡ các em. Tổ chức thi tập trung giữa các tập thể, các nhóm lớp. Lúc này, vai trò của người thầy sẽ như là một giám khảo, một khán
Tài liệu đính kèm: