Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh Lớp 2

5. Mô tả bản chất của sáng kiến:

5.1.Tính mới của sáng kiến:

5.1.1. Thực trạng:

Môn Đạo đức là một trong những môn học bắt buộc để giáo dục nhân cách

cho học sinh, nó là môn học cơ bản trang bị cho học sinh các chuẩn mực đạo

đức, lối sống lành mạnh và cách sống có lí tưởng. Từ đó, các em biết cách vận

dụng hành vi, chuẩn mực đạo đức đó vào cuộc sống.

Mục tiêu của môn Đạo đức ở lớp 2 là giúp cho học sinh có những hiểu biết

ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, pháp luật và thẩm mĩ cơ bản,

phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình,

nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo

những chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hình thành cho học sinh kĩ

năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, lựa2

chọn và thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong những tình huống cụ thể

của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè và người thân cùng thực hiện. Không

những thế, nó còn hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, quý trọng con

người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái chưa

đúng, chưa tốt.

pdf 8 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 761Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN 
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến ngành Giáo dục thị xã Bình Long. 
 Tôi ghi tên dưới đây: 
Số 
TT 
Họ và 
tên 
Ngày 
tháng 
năm sinh 
Nơi công 
tác 
Chức 
danh 
Trình độ 
chuyên 
môn 
Tỷ lệ (%) 
đóng góp vào 
việc tạo ra 
sáng kiến 
1 
LÊ THỊ 
CẢNH 
22/8/1970 
Trường 
TH An 
Lộc B, số 
4 đường 
Hồ Xuân 
Hương, 
phường 
Phú Thịnh, 
thị xã Bình 
Long. 
Giáo 
viên 
chủ 
nhiệm 
(lớp 2) 
ĐHSP 
Tiểu học. 
100% 
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Biện pháp nâng cao hiệu quả 
học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2. 
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Tác giả đồng thời là chủ đầu tư tạo ra sáng 
kiến. 
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Đạo đức) 
4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 09/9/2020 
5. Mô tả bản chất của sáng kiến: 
 5.1.Tính mới của sáng kiến: 
 5.1.1. Thực trạng: 
 Môn Đạo đức là một trong những môn học bắt buộc để giáo dục nhân cách 
cho học sinh, nó là môn học cơ bản trang bị cho học sinh các chuẩn mực đạo 
đức, lối sống lành mạnh và cách sống có lí tưởng. Từ đó, các em biết cách vận 
dụng hành vi, chuẩn mực đạo đức đó vào cuộc sống. 
 Mục tiêu của môn Đạo đức ở lớp 2 là giúp cho học sinh có những hiểu biết 
ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức, pháp luật và thẩm mĩ cơ bản, 
phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, 
nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo 
những chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hình thành cho học sinh kĩ 
năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, lựa 
2 
chọn và thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong những tình huống cụ thể 
của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè và người thân cùng thực hiện. Không 
những thế, nó còn hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, quý trọng con 
người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái chưa 
đúng, chưa tốt. 
 Tôi đã giảng dạy trong ngành giáo dục được 30 năm, trong quá trình giảng 
dạy tôi nhận thấy chất lượng học tập và thực hành môn Đạo đức của học sinh 
chưa đạt kết quả cao. Một số em có những biểu hiện chưa tốt trong cách ứng xử 
với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè; có em chưa vâng lời ông bà, cha mẹ, 
thầy cô, anh chị, chưa có ý thức tự quản, bảo vệ cây xanh, giữ gìn vệ sinh chung 
cho trường lớp và nơi công cộng,... Những tình trạng ấy vẫn xảy ra ở học sinh 
với các mức độ khác nhau. Đặc biệt có những em khi ở trên lớp thì có biểu hiện 
ngoan, lễ phép,... nhưng ngược lại về nhà thì lại chưa vâng lời, nói năng chưa lễ 
phép với ông bà, cha mẹ, anh chị. Mặt khác, một số phụ huynh do hoàn cảnh gia 
đình khó khăn nên chưa quan tâm, giúp đỡ, động viên và khích lệ con em mình 
thực hiện những hành vi đạo đức đến nơi đến chốn; chưa tạo được mối liên hệ 
giáo dục thường xuyên giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Họ đã “khoán trắng” 
việc chăm sóc, giáo dục con em mình cho nhà trường. 
 5.1.2. Tính mới: 
 Trong giai đoạn hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho học sinh không phải là 
vấn đề đơn giản. Trong xã hội có nhiều phim ảnh, mạng xã hội,... có nội dung 
không chuẩn mực với hành vi đạo đức đã tác động không tốt tới các em học 
sinh.Tâm lí học sinh Tiểu học thích “bắt chước” nên hành vi đạo đức của các em 
có thể thu nhận qua việc giao tiếp, qua tranh ảnh, sách báo, truyện, đài, phim, 
kịch,... Nhưng các em chưa biết phân biệt để lựa chọn hành vi đạo đức phù hợp 
cho mình mà lại bắt chước cái xấu, trái với chuẩn mực hành vi đạo đức một cách 
vô thức. Do đó, đòi hỏi người thầy phải có những phương pháp giáo dục phù 
hợp, giúp đỡ học sinh phát triển nhân cách một cách hoàn thiện, tránh cho các 
em tiếp xúc với những hành vi tiêu cực, làm sao để cho các em có được lối sống 
thích nghi với thời đại. Song cũng cần phải cho học sinh thấy được những nét 
đẹp, những truyền thống cao quý của dân tộc. Chính vì điều đó, trong thời gian 
qua, tôi đã suy nghĩ để tìm ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và thực 
hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2. 
 Khi nhìn nhận thấy học sinh bị lệch chuẩn hành vi đạo đức, tôi tìm hiểu về 
hoàn cảnh gia đình của các em, các yếu tố dẫn đến hành vi lệch chuẩn đó; tôi 
đến từng nhà của học sinh để tìm hiểu thêm nguyên nhân tác động đến các em, 
thường xuyên trao đổi với gia đình của học sinh để nắm bắt tình hình của các em 
khi ở nhà. Bằng tình yêu thương thực sự của mình, tôi luôn gần gũi chia sẻ, 
thông cảm, động viên, giúp đỡ, giáo dục các em. 
 Khi giảng dạy, tôi luôn tìm các phương pháp phù hợp lồng ghép lại với 
nhau để giáo dục các em một cách hoàn mĩ nhất. 
 Tâm lí học sinh Tiểu học thường thích bắt chước nên tôi thường xuyên lên 
Internet sưu tầm các tranh ảnh, clip,... có nội dung giáo dục lành mạnh phù hợp 
3 
với nội dung bài giảng cũng như các hoạt động ngoại khóa để lồng ghép giáo 
dục các em. 
 Năm học 2020-2021, tổng số học sinh lớp tôi chủ nhiệm là 36 em, qua giao 
tiếp, khảo sát đầu năm học (chưa áp dụng biện pháp của sáng kiến) học sinh 
hoàn thành tốt 10 em, đạt tỉ lệ 27,8 %, học sinh hoàn thành 26 em, đạt tỉ lệ 
72,2%; đến cuối học kỳ I (đã áp dụng biện pháp của sáng kiến) học sinh hoàn 
thành tốt 22 em, đạt tỉ lệ 61,1 %, học sinh hoàn thành 14 em, đạt tỉ lệ 38,9 %. 
 5.2. Nội dung sáng kiến: 
 5.2.1. Biện pháp nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho 
học sinh lớp 2. 
 Để nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2, 
tôi đã thực hiện biện pháp sau: 
- Linh động chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với nội dung từng bài. 
- Tìm hiểu tâm lí, nhận thức của học sinh. 
- Lựa chọn, sử dụng triệt để, hiệu quả đồ dùng dạy học. 
- Thông qua các môn học khác để dạy đạo đức cho học sinh. 
- Xây dựng các kiến thức chuẩn mực và hành vi đạo đức tốt cho học sinh 
dựa vào các hoạt động ngoại khoá. 
- Kết hợp với các môi trường giáo dục để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo 
đức cho học sinh. 
 5.2.2. Tổ chức thực hiện các biện pháp. 
5.2.2.1. Linh động chọn phương pháp dạy sao cho phù hợp với nội dung 
từng bài. 
 Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng. Do vậy, khi giảng 
dạy, tôi đã lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp cho phù hợp với đặc trưng 
của môn học. Khi lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học môn Đạo đức, 
tôi căn cứ vào: Mục tiêu bài giảng; Đặc điểm của học sinh; Điều kiện thực tế. 
Mỗi phương pháp cần phải sử dụng đúng thời điểm của tiết dạy. 
 Ví dụ: Khi dạy bài 11 "Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại" (tiết 1) 
+ Hoạt động 1: Quan sát mẫu hành vi. 
Bước 1: Cho học sinh đóng vai diễn lại kịch bản có mẫu hành vi đã 
chuẩn bị. 
Bước 2: Yêu cầu học sinh đàm thoại để nhận xét về cuộc nói chuyện 
điện thoại vừa xem. 
+ Hoạt động 2: Thảo luận nhóm: 
Bước 1: Học sinh được thảo luận ghi việc nên làm và không nên làm 
khi gọi điện thoại. 
Bước 2: Học sinh trình bày nội dung được thảo luận. 
+ Hoạt động 3: Liên hệ thực tế: 
 Trong hoạt động này học sinh được luyện tập theo mẫu hành vi chuẩn. 
 Hay là khi dạy Bài 2 “Biết nhận lỗi và sửa lỗi” 
 Các phương pháp cần xác định là: kể chuyện, nêu gương, thảo luận 
nhóm, động não, tập luyện theo mẫu hành vi, đóng vai, tổ chức trò chơi. Phương 
pháp kể chuyện được sử dụng trong hoạt động 1- Tiết 1. Tôi kể chuyện Cái bình 
4 
hoa với kết thúc mở. Sau đó chia nhóm, giao việc để các nhóm thảo luận và trả 
lời câu hỏi phân tích truyện xác định ý nghĩa của hành vi nhận lỗi và sửa lỗi. 
Sang hoạt động 2, tôi tiếp tục giao việc cho các nhóm thảo luận và bày tỏ ý kiến, 
thái độ của mình về những hành vi đúng, chưa đúng. Ở tiết 2 - Trong hoạt động 
1, học sinh được đóng vai theo tình huống, các em lựa chọn và thực hiện hành vi 
nhận lỗi và sửa lỗi. Chuyển sang hoạt động 2, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò 
chơi Ghép đôi - Qua trò chơi, học sinh biết cách ứng xử các tình huống nhận lỗi 
và sửa lỗi. 
 5.2.2.2. Tìm hiểu tâm lí, nhận thức của học sinh. 
 Tìm hiểu chung về nhận thức, tâm lí của học sinh để định hướng các biện 
pháp giáo dục đạo đức là yêu cầu cần thiết đối với người thầy. Điều này sẽ giúp 
các thầy cô giáo hiểu rõ học sinh: Các em nghĩ gì? yêu gì? chưa yêu gì? Các em 
nghĩ đúng hay chưa đúng? Qua đó mà tìm ra cách định hướng khi truyền đạt nội 
dung giáo dục, thông tin giảng dạy sẽ đến với mỗi em một cách dễ dàng, phù 
hợp, đi sâu vào nhận thức của học sinh. 
 Vì học sinh Tiểu học rất thích khen, nên tôi nắm bắt được tâm lí này của 
các em để kịp thời động viên, khích lệ học sinh học tập, rèn luyện. 
 Trẻ em thường hay nói thật, nói những gì mà các em nghĩ, đây là ưu điểm 
của học sinh chúng ta. Nếu chúng ta biết cách khai thác sẽ đem lại hiệu quả giáo 
dục tích cực. Vì vậy, tôi đã đặt những câu hỏi mang tính khơi gợi, tạo sự hứng 
thú cho các em hăng hái nói nhiều hơn, thật thà hơn, giúp các em chủ động hơn 
trong mỗi tiết học. Tôi chỉ là người tổ chức, hướng dẫn học sinh mỗi câu trả lời 
nhằm khuyến khích những suy nghĩ đúng đắn và sớm giải thích, bác bỏ những 
tư tưởng lệch lạc nơi các em. Cách làm này giúp cho bài học đạo đức thực sự 
khắc sâu hơn, mỗi câu trả lời hồn nhiên của các em trong các tiết học sẽ góp 
phần nhận thức bài học cuộc sống cho mình. 
 Trong các tiết học, tôi luôn tạo không khí thoải mái gần gũi với học sinh, 
làm cho các em tự tin biểu lộ những suy nghĩ trong sáng, thật thà của mình: 
“Bây giờ cô trò mình sẽ tâm sự cùng nhau nhé!” 
Ví dụ: Trong bài “Quan tâm, giúp đỡ bạn” 
Tôi nói: “Cô biết trong lớp mình có rất nhiều em đã quan tâm, giúp đỡ 
bạn, em nào xung phong kể lại cho cô và các bạn cùng nghe.” Có nhiều em kể 
trước lớp những việc làm quan tâm, giúp đỡ bạn. Tôi đề nghị cả lớp tuyên 
dương những bạn đã làm được việc tốt đó. 
Đối với công việc này, tôi kiên trì, nhẫn nại, vì thông thường các em rất ít 
nói ra những cảm nhận sâu kín của mình, bởi lẽ chưa tìm được sự tin cậy, chia 
sẻ ân cần của thầy cô. Cho nên, để thuyết phục được các em tạo nên sự tin cậy là 
cả một quá trình. Hơn thế nữa, khi nhận được những lời tâm sự thật lòng của các 
em tôi đáp lại sự tin cậy ấy bằng cách cởi bỏ những thắc mắc của các em, thuyết 
phục các em đến với cái tốt một cách tự nhiên, trong sáng. Như vậy, lâu ngày 
các em sẽ xem cô giáo như là người mẹ tin cậy biết lắng nghe và giúp các em 
giải quyết những khó khăn, thắc mắc trong cuộc sống. 
 5.2.2.3. Lựa chọn, sử dụng triệt để, hiệu quả đồ dùng dạy học. 
5 
 Để thực hiện đổi mới phương pháp, việc sử dụng đồ dùng dạy học là rất 
quan trọng. Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự thành công của một tiết 
dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy tôi đã chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho 
tiết dạy của mình. Mỗi khi thiết kế bài học tôi đã căn cứ vào mục tiêu, nội dung 
tính chất, hình thức của bài học để lựa chọn thiết bị dạy học cho phù hợp, dễ sử 
dụng. 
 Hiện nay, trang thiết bị và đồ dùng dạy học môn Đạo đức còn hạn chế về 
tranh ảnh nên tôi đã tích cực sưu tầm thêm các tranh ảnh và những nội dung 
giảng dạy khác trên Internet để phục vụ cho công tác giảng dạy tốt. Ngoài ra, tôi 
sử dụng các đồ dùng tự làm chuẩn bị trước mỗi tiết học và những đồ dùng cần 
thiết cho từng hoạt động của từng bài. Ví dụ: Khi dạy bài 11 “Lịch sự khi nhận 
và gọi điện thoại ” tôi chuẩn bị một số đồ dùng như: Bộ đồ chơi điện thoại hoặc 
là điện thoại thật loại để bàn sử dụng trong tiểu phẩm ở hoạt động 1 - Tiết 1. 
Cuối tiết dạy phần củng cố, tôi giới thiệu đến học sinh một clip ngắn nói về cuộc 
nhận và gọi điện thoại. 
 5.2.2.4. Thông qua các môn học khác để dạy đạo đức cho học sinh. 
Dạy môn Đạo đức thông qua các môn học khác là hình thức giáo dục rất 
quan trọng. Dạy đạo đức cho học sinh không chỉ bó hẹp ở một môn học Đạo đức 
mà có thể nói rằng dạy đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi và tất cả các môn học. 
 Ví dụ: Trong dạy môn Tự nhiên và Xã hội, học sinh được nhận biết các 
loài vật sống dưới nước, trên cạn và nêu được ích lợi của chúng. Khi học đạo 
đức bài 14: “Bảo vệ loài vật có ích” học sinh sẽ tiếp thu và có hành vi bảo vệ 
loài vật có ích một cách nhanh hơn, tốt hơn. 
 5.2.2.5. Xây dựng các kiến thức chuẩn mực và hành vi đạo đức tốt cho học 
sinh dựa vào các hoạt động ngoại khoá. 
 Trước khi cho học sinh tham gia chào cờ hoặc sinh hoạt ngoại khóa, tôi đều 
dặn các em phải tập trung quan sát, lắng nghe tiếp thu các hành vi chuẩn mực 
đạo đức. 
Ví dụ: Thông qua các tổ chức Đoàn - Đội, các buổi sinh hoạt Đội, sinh 
hoạt Sao nhi đồng, thông qua các buổi chào cờ dạy cho các em những tấm 
gương tốt ở trường, ở lớp, đồng thời cũng nhắc nhở những em chưa thật sự cố 
gắng. Từ đó kích thích tinh thần phấn đấu vươn lên trong học tập, lao động, rèn 
luyện đạo đức của các em. Điển hình như các phong trào: “Nuôi heo đất tình 
thương”, “Mua tăm ủng hộ người mù”, “Cây mùa xuân cho bạn”, “Áo trắng tặng 
bạn”, “Kế hoạch nhỏ”,  giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, ý 
thức tiết kiệm để làm những việc có ích. Ngoài ra, các cuộc giao lưu như: Kể 
chuyện đạo đức; Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, 
phong trào “Nghĩa tình biên giới”, giáo dục cho học sinh tinh thần: “Uống 
nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo”. 
 5.2.2.6. Kết hợp với các môi trường giáo dục để nâng cao hiệu quả giáo dục 
đạo đức cho học sinh. 
 Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh, tôi luôn kết hợp chặt 
chẽ với các lực lượng giáo dục. Cùng với nhà trường, gia đình cũng góp phần 
quan trọng trong hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. Vì thế, tôi đã có sự 
6 
kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, cộng đồng bằng các hình thức tổ 
chức: Họp phụ huynh học sinh, thường xuyên thăm hỏi, tìm hiểu hoàn cảnh gia 
đình của từng học sinh. Từ đó, có kế hoạch giúp đỡ những em có hoàn cảnh đặc 
biệt khó khăn. Kết hợp với phụ huynh học sinh, thông qua các hoạt động ở nhà, 
ở trường để kiểm tra đánh giá các hành vi đạo đức của các em. Cũng bằng hình 
thức này, tôi trao đổi cùng phụ huynh giúp đỡ những học sinh chưa tiếp cận 
được với hành vi đúng đắn, uốn nắn để hướng các em theo kịp cùng bạn bè và 
có những mối quan hệ ứng xử tốt trong cuộc sống. 
 Nhà trường, giáo viên chủ nhiệm cùng với gia đình, cộng đồng tạo một 
vòng tay giáo dục khép kín, một môi trường lành mạnh, thân thiện làm cho việc 
giáo dục đạo đức thường xuyên hơn, tích cực hơn, hiệu quả hơn. 
 Tóm lại: Tất cả các biện pháp trên đều nhằm đạt tới một mục đích cuối 
cùng là: Học sinh sẽ biết ứng xử tốt nhất các mối quan hệ với bản thân, gia đình, 
nhà trường, cộng đồng và biết giữ gìn, bảo vệ, vệ sinh môi trường, nơi công 
cộng, Các em nắm vững các chuẩn mực hành vi đạo đức; biết thực hành vận 
dụng hàng ngày để những hành vi đạo đức đó trở thành phẩm chất đạo đức tốt 
của người học sinh trong nhà trường, gia đình và xã hội. 
5.3. Khả năng áp dụng của sáng kiến: 
 Áp dụng cho toàn thể học sinh lớp 2 Tiểu học. 
6. Những thông tin cần được bảo mật: Không 
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 Học sinh, các tổ chức giáo dục trong và ngoài nhà trường. 
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
kiến theo ý kiến của tác giả: 
 Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Biện pháp nâng cao hiệu 
quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2” đã đạt được 
những kết quả sau: 
Năm học 
2020- 2021 
Kiến thức, kĩ năng 
Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 
TS % TS % TS % 
Khảo sát đầu năm 10 27,8 26 72,2 0 0 
Cuối HKI 22 61,1 14 38,9 0 0 
Phương pháp giáo dục đạo đức với nhiều hình thức đa dạng và phong phú 
đã thực sự cuốn hút học sinh. Tôi thấy các em đã tích cực, chủ động học tập và 
thực hiện tốt các hành vi đạo đức. Lớp học đã trở thành nơi mà các em có thể tin 
tưởng ở thầy cô, bạn bè để bày tỏ những cảm nhận thơ ngây về cuộc sống. Các 
em đã làm chủ được những buổi sinh hoạt ngoại khoá, các tiết học Đạo đức, biết 
tạo cho mình nhận thức đúng đắn qua sự góp ý của bạn bè và sự hướng dẫn của 
thầy cô. Tôi cảm thấy mình được lắng nghe, hiểu và gần gũi các em hơn sau mỗi 
tiết học. Điều này giúp tôi dễ dàng bám sát quá trình học tập cũng như giáo dục 
đạo đức cho các em. 
7 
 Trong các tiết học, các em đã biết cách liên hệ đến tình yêu thương gia đình, 
tình bạn bè, thầy cô giáo, bảo vệ môi trường; biết lễ phép với người lớn; biết 
phân biệt cái đúng, cái chưa đúng; biết nhận lỗi và sửa lỗi. Các em đã hiểu được 
những giá trị đạo đức, lối sống bằng những hành động thực tiễn. Các em tự giác 
thực hành những điều tốt đã học; không đồng tình và không làm theo những cái 
xấu, cái chưa đúng. 
* Bài học sau khi thực hiện sáng kiến: 
 Để nâng cao hiệu quả học tập và thực hành môn Đạo đức cho học sinh lớp 2, 
người giáo viên cần phải: 
 - Trong dạy học môn Đạo đức, khi thiết kế một bài dạy cần xác định các 
mục tiêu chính xác, rõ ràng, đảm bảo đủ 3 yêu cầu quy định. Xây dựng phong 
trào thi đua dạy tốt - học tốt môn Đạo đức dưới nhiều hình thức khác nhau. Khi 
tiến hành dạy học trên lớp, để chuyển tải kiến thức tới học sinh một cách nhẹ 
nhàng, sinh động gắn với các hoạt động cụ thể, đồng thời để giáo dục đạo đức 
cho các em tôi đã khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, các hình 
thức tổ chức khoa học và phù hợp. Từ đó, các em biết áp dụng bài học vào cuộc 
sống thực tiễn hàng ngày. 
 - Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, 
với lương tâm trách nhiệm của người thầy. Mỗi thầy cô giáo phải là một tấm 
gương sáng và chuẩn mực đạo đức để học sinh học tập và noi theo. Vì vậy, mỗi 
giáo viên cần chú ý tới cử chỉ, lời nói, cách ăn mặc chuẩn mực của mình để học 
sinh bắt chước làm theo. 
 - Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi, trau dồi kiến thức, 
nâng cao năng lực để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn 
thế, người giáo viên phải dành nhiều thời gian để tự tìm tòi, nghiên cứu và tham 
gia tích cực vào các lớp chuyên môn nghiệp vụ do ngành, phòng Giáo dục và 
nhà trường tổ chức. 
- Mỗi giáo viên trong quá trình công tác phải xem trường là ngôi nhà 
chung của toàn thể thể cán bộ, giáo viên, nhân viên, các đồng nghiệp là những 
người thân của mình để từ đó có thể chia sẻ, trao đổi những kinh nghiệm cho 
nhau, cùng nhau nâng cao tay nghề, làm tốt công tác giáo dục các em. 
- Làm tốt công tác kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 
Phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng nhằm tạo ra 
môi trường giáo dục khép kín, tạo bầu không khí lành mạnh xung quanh học 
sinh để hình thành và phát triển tư tưởng, tình cảm, hành vi và thói quen đạo đức 
tốt cho các em. 
9. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần 
đầu, kể cả áp dụng thử: 
8 
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật 
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. 
Phú Thịnh, ngày tháng 02 năm 2021. 
NGƯỜI NỘP ĐƠN 
 Lê Thị Cảnh 
...
.. 
... 
... 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_hoc_tap_va.pdf