Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào môn Sinh học 6

Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào môn Sinh học 6

3. Nội dung sáng kiến.

+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:

- Áp dụng phương pháp dạy học mới: Phương pháp bàn tay nặn bột -

phương pháp dạy học đã được sử dụng thành công ở nhiều nước trên thế giới,

đem lại hiệu quả cao trong việc phát triển năng lực học sinh.

- Động viên khích lệ học sinh tham gia các hoạt động học tập tích cực, tự

giác, chủ động. Phát triển năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực

giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực

tiễn, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực quan

sát, năng lực thực hành thí nghiệm,. của học sinh.

+ Khả năng áp dụng của sáng kiến:

Sau khi dự lớp tập huấn và nghiên cứu các tài liệu viết về dạy học theo

định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi thấy trong số các phương pháp dạy

học theo định hướng phát triển năng lực học sinh thì dạy học theo Phương pháp

bàn tay nặn bột là phương pháp được áp dụng ở các nước phát triển trên thế

giới và có thể vận dụng vào giảng dạy ở Việt Nam. Do cơ sở vật chất của phần

đông các nhà trường ở Việt Nam còn thiếu thốn nên dạy học theo PPBTNB phải

tùy vào từng bài cụ thể để áp dụng. Qua nghiên cứu, tôi thấy những bài liên quan

đến kiến thức hình thái và phân loại môn Sinh học 6 nếu áp dụng PPBTNB sẽphát triển được năng lực học sinh. Bởi vậy sáng kiến của tôi dùng để áp dụng

dạy các bài liên quan đến kiến thức hình thái, phân loại môn Sinh học 6.

pdf 34 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 515Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào môn Sinh học 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h qua việc tham gia các 
hoạt động nghiên cứu. 
d) Quan niệm ban đầu của học sinh 
Quan niệm ban đầu là những biểu tượng ban đầu, ý kiến ban đầu của học 
sinh về sự vật, hiện tượng trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện 
tượng. Đây là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh, 
là các ý tưởng giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của học sinh, còn gọi 
là các "khái niệm ngây thơ". Biểu tượng ban đầu không phải là kiến thức cũ, đã 
được học mà là quan niệm của học sinh về sự vật, hiện tượng mới (kiến thức 
mới) trước khi học kiến thức đó. 
Tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu là một đặc trưng quan 
trọng của phương pháp dạy học BTNB. Biểu tượng ban đầu của học sinh là rất 
đa dạng và phong phú. Biểu tượng ban đầu là một chướng ngại trong quá trình 
nhận thức của học sinh. Chướng ngại chỉ bị phá bỏ khi học sinh tự mình làm 
thí nghiệm, tự rút ra kết luận, đối chiếu với quan niệm ban đầu để tự đánh giá 
quan niệm của mình đúng hay sai. 
4.1.3.2.2. Những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên 
cứu 
Dạy học theo phương pháp BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp 
khác nhau phụ thuộc vào trình độ của học sinh. Giảng dạy theo phương pháp 
BTNB bắt buộc giáo viên phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất 
định (một giáo án nhất định). Giáo viên được quyền biên soạn tiến trình giảng 
dạy của mình phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng lớp học. Tuy vậy, để 
giảng dạy theo phương pháp BTNB cũng cần phải đảm bảo các nguyên tắc cơ 
bản sau: 
a) HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt 
được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các 
câu hỏi. 
b) Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học 
c) Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kĩ năng. Một trong các 
kĩ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích. 
d) Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm 
mà học sinhcòn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết viết cho mình và cho 
người khác hiểu. 
e) Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu. 
f) Khoa học là một công việc cần sự hợp tác. 
4.1.3.2.3. Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu 
a) Phương pháp quan sát: Quan sát được sử dụng để: 
- Giải quyết một vấn đề; 
- Miêu tả một sự vật, hiện tượng; 
- Xác định đối tượng; 
- Kết luận. 
b) Phương pháp thí nghiệm trực tiếp 
Một thí nghiệm yêu cầu học sinh trình bày nên đảm bảo 4 phần chính: 
 - Vật liệu thí nghiệm; 
 - Bố trí thí nghiệm; 
 - Kết quả thu được; 
 - Kết luận. 
c) Phương pháp làm mô hình 
d) Phương pháp nghiên cứu tài liệu 
4.1.3.3. Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB:10 nguyên tắc cơ bản 
4.1.3.3.1 Nguyên tắc về tiến trình sư phạm 
a) Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi 
với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. 
b) Trong quá trình tìm hiểu, học sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra 
tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu 
biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên. 
c) Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến 
trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho 
các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự 
chủ khá lớn. 
d) Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. 
Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo 
trong suốt thời gian học tập. 
e) Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi 
chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em. 
f) Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật 
được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh. 
4.1.3.3.2. Những đối tượng tham gia 
a) Các gia đình, khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp 
học. 
b) Ở địa phương, các cơ sở khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên 
cứu) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình. 
c) Ở địa phương, các viện đào tạo giáo viên (Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại 
học Sư phạm) giúp các giáo viên về kinh nghiệm và phương pháp dạy học. 
d) Giáo viên có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những 
môđun kiến thức (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, 
những giải pháp thắc mắc. Giáo viên cũng có thể tham gia hoạt động tập thể 
bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa 
học. Giáo viên là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động 
của lớp mình phụ trách. 
4.1.3.4. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB: theo 5 bước cụ thể sau đây. 
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề 
 * Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do 
giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống 
xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất 
phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì 
việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp 
không nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu 
vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể) 
* Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môdun kiến thức 
mà học sinh sẽ được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp 
với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, 
nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước khi khám 
phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được 
dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi 
nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của giáo 
viên càng dễ thực hiện thành công. 
Bước 2: Hình thành câu hỏi của học sinh. 
 Hình thành biểu tượng ban đầu từ đó hình thành các câu hỏi của học sinh 
là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Trong bước này, giáo 
viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình 
trước khi được học kiến thức. Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban 
đầu, giáo viên có thể yêu cầu nhiều hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là 
bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện 
suy nghĩ. Từ những quan niệm ban đầu của học sinh, giáo viên giúp học sinh 
đề xuất các câu hỏi. Chú ý xoáy sâu vào những quan niệm liên quan đến kiến 
thức trọng tâm của bài học (hay mô đun kiến thức). 
Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số quan niệm ban đầu khác biệt 
trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan 
đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần phải 
chọn lựa các quan niệm ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục quan niệm của 
học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời điều khiển 
sự thảo luận của học sinh nhằm giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự 
khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các quan niệm ban đầu không tốt 
sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh gặp khó khăn. 
Bước 3: Xây dựng giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm. 
Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh, 
giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó. Chú ý 
xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài 
(hay mô đun kiến thức). 
Ở bước này giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu 
khác biệt trong lớp để giúp học sinh so sánh, từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi 
liên quan đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì giáo viên cần 
phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục biểu tượng 
của học sinh một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt 
điều khiển thảo luận của học sinh nhằm giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ 
những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các biểu tượng ban đầu 
không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của học sinh gặp khó 
khăn. 
Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị 
các em đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu 
hỏi đó. 
Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo 
viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã 
chuẩn bị sẵn. Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm 
tìm tòi - nghiên cứu thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể 
phương án. 
 Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu 
là các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, 
thực hành - thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu 
Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu 
Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà học sinh nêu ra, 
giáo viên khéo léo nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu 
tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể 
tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể làm cho mô hình, hoặc cho học sinh 
quan sát tranh vẽ. 
Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần lượt các thí 
nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để 
học sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng). 
Bước 5: Kết luận và hệ thống hóa kiến thức 
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần 
được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống 
hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết 
luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. 
4.1.3.5. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác 
Ngày nay, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ 
thông, chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều phương pháp và hình thức dạy học 
mới như: Dạy học giải quyết vấn đề; Dạy học nêu và giải quyết vấn đề; Dạy 
học theo lí thuyết kiến tạo... với nhiều kĩ thuật tố chức hoạt động học tích cực 
cho học sinh. Tuy có những điểm khác biệt nhau nhưng nhìn chung thì các 
chiến lược dạy học, phương pháp dạy học đó đều được xây dựng trên tinh thần 
dạy học giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức cho học sinh hoạt động tự chủ 
chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan 
điểm đạo đức, thái độ. 
Đối chiếu với tiến trình sư phạm của phương pháp BTNB, chúng ta có 
thể nhận thấy điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp 
dạy học tích cực khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho học sinh hoạt động tích 
cực, tự lực giải quyết vấn đề. Về cơ bản thì tiến trình dạy học cũng được diễn 
ra theo 3 pha chính là: 1- chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh; 2- học sinh hoạt 
động tự chủ giải quyết vấn đề; 3- báo cáo, hợp thức hóa và vận dụng kiến thức 
mới. Điểm khác biệt của phương pháp BTNB so với các phương pháp khác là 
ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là những sự vật hay hiện 
tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ 
thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp BTNB chú trọng việc giúp 
cho học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn nhận thức làm 
cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tòi - nghiên cứu trong 
phương pháp BTNB rất đa dạng, trong đó các phương án thí nghiệm nếu được 
tiến hành thì chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi chính học sinh, với 
những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm. Đặc biệt, trong phương pháp BTNB, học 
sinh bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thí nghiệm do chính các em ghi 
chép theo cách thức và ngôn ngữ của chính các em. Thông qua các hoạt động 
như vậy, phương pháp BTNB nhằm đạt được mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh 
dần dần của học sinh các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm 
theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói. 
4.1.3.6. Một số lưu ý trong dạy học theo PPBTNB 
a) Tổ chức lớp học 
- Bố trí vật dụng trong lớp học: Thực hiện dạy học khoa học theo 
phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy nếu muốn tiện 
lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học nên được sắp xếp 
bàn ghế theo nhóm cố định. 
Không khí làm việc trong lớp học: Phương pháp BTNB cần một không 
khí làm việc thoải mái, học sinh có thể tham gia và ham thích các hoạt động 
dạy học 
Cần có chỗ để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho học sinh. Không 
nên để sẵn các vật dụng thí nghiệm lên bàn của học sinh trước khi dạy học vì 
có thể sẽ mất tập trung với học sinh và có thể sẽ làm lộ ý đồ dạy học của giáo 
viên khi giáo viên muốn học sinh tự đề xuất thí nghiệm nghiên cứu. 
b) Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu 
Quan điểm ban đầu của học sinh thường là các quan niệm hay khái quát 
chung về sự vật, hiện tượng, có thể sai hoặc chưa chính xác về mặt khoa học. 
Giáo viên nên khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình; giáo viên phải 
biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh, không nên có 
nhận xét đúng - sai sau khi học sinh trình bày. Biểu tượng ban đầu càng đa 
dạng, phong phú, càng sai lệch với ý kiến đúng thì tiết học càng sôi nổi, thú vị, 
gây hứng thú cho học sinh. Do đó, ý đồ dạy học của giáo viên càng dễ thực 
hiện được. 
c) Kỹ thuật tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh 
Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương 
pháp BTNB. Có hai hình thức thảo luận trong dạy học theo phương pháp 
BTNB: thảo luận nhóm nhỏ (trong nhóm làm việc) và thảo luận nhóm lớn 
(toàn bộ lớp học). 
Cần phân biệt rõ thảo luận theo truyền thống trong một số phương pháp 
dạy học và thảo luận trong phương pháp BTNB. Thảo luận truyền thống được 
thực hiện bằng cách giáo viên đặt câu hỏi, lựa chọn một học sinh trả lời, sau đó 
nhận xét đúng hay sai. Thảo luận trong phương pháp BTNB hoàn toàn khác 
biệt vì được thực hiện bằng sự tương tác giữa các học sinh với nhau, có nghĩa 
là phần trả lời của học sinh sau bổ sung cho học sinh trước, hoặc đặt câu hỏi 
đối với ý kiến trước; hoặc trình bày một quan điểm mới; hoặc đưa ra tranh cãi 
ý kiến của nhóm mình. 
Như vậy, điều quan trọng là giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận, 
giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích học sinh thảo luận 
tích cực. 
d) Kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp BTNB 
Hoạt động nhóm giúp học sinh làm quen với phong cách làm việc hợp 
tác với nhau giữa các cá nhân. Kỹ thuật hoạt động nhóm được thực hiện ở 
nhiều phương pháp dạy học khác, không phải một đặc trưng của phương pháp 
BTNB. Tuy nhiên trong việc dạy học theo phương pháp BTNB, hoạt động 
nhóm được chú trọng nhiều. 
Mỗi nhóm không được quá nhiều học sinh, nhóm làm việc lý tưởng là từ 
4 đến 6 học sinh. Mỗi nhóm học sinh được tổ chức gồm một nhóm trưởng- là 
người đại diện cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm 
mình và một thư kí để ghi chép chung các phần thảo luận của nhóm hay phần 
trình bày ra giấy. 
e) Kỹ thuật đặt câu hỏi của giáo viên 
Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng một 
vai trò quan trọng trong sự thành công của của phương pháp và thực hiện tốt ý 
đồ dạy học. Câu hỏi "tốt" có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của 
mình, và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng. Người ta gọi những câu hỏi này 
là câu hỏi "mở" vì nó kích thích một "hành động mở", khuyến khích học sinh 
suy nghĩ tới những câu hỏi riêng của học sinh và phương án trả lời những câu 
hỏi đó. Trong dạy học giáo viên thường sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi 
gợi ý. 
+ Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học hay môđun kiến thức. 
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi đặc biệt nhằm định hướng học sinh theo chủ đề 
của bài học nhưng cũng đủ "mở" để kích thích sự tự vấn của học sinh. Chất 
lượng của câu hỏi nêu vấn đề sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ dạy học ở các 
bước tiếp theo của tiến trình phương pháp và sự thành công của bài học. 
+ Câu hỏi gợi ý là các câu hỏi được đặt ra trong quá trình làm việc của 
học sinh. Câu hỏi gợi ý có thể là câu hỏi "ít mở" hơn hoặc là dạng câu hỏi 
"đóng". Vai trò của nó nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh rõ hơn hoặc kích 
thích một suy nghĩ mới của học sinh. Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý tùy thuộc 
vào tình huống xảy ra trong lớp học, xuất phát từ hoạt động học của học sinh 
(làm thí nghiệm, thảo luận). 
f) Rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh thông qua dạy học theo phương pháp 
BTNB 
Mặc dù phương pháp BTNB là một phương pháp dạy học dựa trên thực 
nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, nhưng ngoài việc làm thực nghiệm, khám phá 
kiến thức, học sinh cần được chú ý rèn luyện ngôn ngữ nói và viết. Đây là một 
đặc điểm quan trọng của phương pháp và cũng là một nhiệm vụ quan trọng 
trong dạy học khi mà học sinh đang trong quá trình phát triển ngôn ngữ. 
Dạy học theo phương pháp BTNB là sự hòa quyện ba phần gần như 
tương đương nhau đó là thực nghiệm, nói và viết. Phương pháp BTNB đề nghị 
dành một thời gian để ghi chép cá nhân, để thảo luận xây dựng tập thể những 
câu thuật lại các kiến thức đã được trao đổi và học cách thức sử dụng các cách 
thức viết khác nhau. 
g) Kĩ thuật chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của học sinh 
Trong các tiết học theo phương pháp BTNB, giáo viên cần nhanh chóng 
nắm bắt ý kiến phát biểu của từng học sinh và phân loại các ý tưởng đó để thực 
hiện ý đồ dạy học. Ý kiến phát biểu của học sinh rất đa dạng, đặc biệt là đối với 
các kiến thức phức tạp. Ý kiến của học sinh càng khác biệt, có ý kiến sai lệch 
so với kiến thức đúng thì tiết học càng sôi nổi và giáo viên cũng dễ điều khiển 
tiết học hơn. Nắm bắt nhanh ý tưởng và phân loại ý tưởng để từ đó điều khiển 
lớp học đi đúng ý đồ dạy học đóng vai trò quan trọng trong sự thành công về 
mặt sư phạm của giáo viên. 
h) Hướng dẫn học sinh đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu hay phương án 
tìm câu trả lời 
Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu trả lời 
của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, cần chú ý mấy điểm sau: 
- Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm 
chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án đề 
xuất. 
- Phương án tìm câu trả lời hay thí nghiệm kiểm chứng đều xuất phát từ 
những sự khác biệt của các ý tưởng ban đầu (quan niệm ban đầu) của học sinh, 
vì vậy giáo viên nên xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp 
học sinh tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc học sinh đề xuất các phương án 
để tìm ra câu trả lời. 
- Khi học sinh đề xuất phương án tìm câu trả lời, giáo viên không nên 
nhận xét phương án đó đúng hay sai mà chỉ nên hỏi ý kiến các học sinh khác 
nhận xét, phân tích. Nếu các học sinh khác không trả lời được thì giáo viên gợi 
ý những mâu thuẫn mà phương án đó không đưa ra câu trả lời được nhằm gợi ý 
để học sinh tự rút ra nhận xét và loại bỏ phương án; thảo luận và lựa chọn 
phương án khác tối ưu. 
i) Hướng dẫn học sinh sử dụng vở thí nghiệm 
Vở thí nghiệm là một đặc trưng quan trọng trong thực hiện phương pháp 
BTNB. Thông qua việc ghi chép trong vở thí nghiệm, học sinh được tập làm 
quen với công tác nghiên cứu khoa học và giáo viên cũng giúp học sinh rèn 
luyện ngôn ngữ viết. 
Nội dung ghi chép trong vở thí nghiệm là các ý kiến, quan niệm ban đầu 
trước khi học kiến thức, các dự kiến, đề xuất, có thể là các sơ đồ, tiến trình thí 
nghiệm đề xuất của học sinh khi làm việc với nhóm, hoặc có thể là các câu hỏi 
cá nhân mà học sinh đưa ra trong khi học. Học sinh có thể ghi chép bằng lời, 
hình vẽ hay sơ đồ, bảng biểu. Vở thí nghiệm chứa đựng các phần ghi chú cá 
nhân, phần ghi chú tổng kết của nhóm (học sinh viết lại phần thống nhất thảo 
luận trong nhóm) hoặc phần ghi chú tổng kết thảo luận của cả lớp (k

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_ap_dung_day_hoc_theo_dinh_huong_phat_t.pdf