Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh khi học Địa lí 4

Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh khi học Địa lí 4

Giáo viên chưa quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh, nhất là học sinh có hoàn cảnh học tập khó khăn.

Sử dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp.

Các hoạt động dạy học còn mang phương pháp cũ, chưa có tính chủ động sáng tạo.

Giáo viên chưa chú ý đến những học sinh yếu, chưa quan tâm đều đến các đối tượng học sinh.

Thư viện chưa có nhiều sách, báo để tham khảo. Thời gian chưa nhiều để nghiên cứu kỹ làm tốt đề tài nghiên cứu.

- Học sinh:

Lớp có nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình chưa có sự quan tâm đúng đắn về việc học của học sinh, một số em nhà quá xa trường. Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú.

Khả năng đọc, hiểu chậm, tiếp thu bài chậm, không chịu khó tìm tòi phương pháp học tập. Học sinh chưa có ý thức nhận biết rõ tầm quan trọng của việc học, lười học, chưa quan tâm việc học và còn tự ti ở vùng khó khăn.

 

doc 23 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 4766Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh khi học Địa lí 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước. Để tự hào làm rạng danh nước Việt, sánh vai với các cường quốc năm châu.
2.2 Nhiệm vụ cụ thể:
- Tạo môi trường học tập tích cực. Tạo môi trường thân thiện “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. 
- Tìm phương pháp giảng dạy thích hợp, có trọng tâm, nhằm thẳng vào các yêu cầu quan trọng nhất, với mức độ yêu cầu vừa sức các em để nâng dần kiến thức.
- Tổ chức học tổ, học nhóm trong điều kiện thời gian quy định.
- Phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập, đôn đốc thực hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà. Duy trì sĩ số, giảm tỉ lệ bỏ học.
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh khi học Địa lí 4
4. Phạm vi nghiên cứu:
Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực cho học sinh khi học Địa lí 4 cho học sinh lớp 4C, trường Tiểu học Trần Quốc Toản, năm học 2014 – 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hình thành biểu tượng Địa lí. 
 	- Phương pháp sử dụng bản đồ 
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp luyện tập, thực hành
- Phương pháp hoạt động nhóm
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
II. PHẦN NỘI DUNG
 	1. Cơ sở lý luận
 	Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa lí. Giáo viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp Học sinh khám phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất. Môi trường sống của con người, về những hoạt động của loài người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Địa lí là một trong những bộ môn quan trọng đòi hỏi mỗi người phải có kiến thức am hiểu về nó. Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, trong những giờ lên lớp tôi luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, học sinh tích cực chủ động nắm tri thức, tạo cho học sinh sự tham gia hứng thú và trách nhiệm. Tôi luôn đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt động và hợp tác học sinh luôn được người dạy theo sát giúp đỡ nên tích cực tự giácthể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Kết quả là học sinh lớp tôi dạy đã tiếp thu được những nguồn tri thức mới, bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê và yêu mến môn học hơn ngàn lần những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên. 
 	Khi tôi đến lớp giảng dạy bất cứ môn gì thì cũng cần phải có sự hỗ trợ của dụng cụ dạy học hay còn gọi là thiết bị dạy học, nhất là ở môn địa lí cần phải có: bản đồ, lược đồ, tranh ảnh địa lí  Kết hợp các phương pháp dạy học nhằm phục vụ học sinh những tri thức vững chắc để hiểu về những cơ sở khoa học, những kỹ năng vận dụng các tri thức đó vào cuộc sống đồng thời giúp học sinh phát triển toàn diện, rèn luyện tính tích cực độc lập cho học sinh. 
 	Đặc điểm môn địa lí lớp 4 là giúp các em biết được các sự vật hiện tượng và mối quan hệ địa lí ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Sách giáo khoa lớp 4 được biên soạn phù hợp với tâm lý nhận thức của học sinh tiểu học và không quá tải về kiến thức. Tạo điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và giúp học sinh tự rèn tại lớp, tại nhà. Nhằm giúp các em phát huy hết năng lực của mình cũng như rèn học sinh tính tự giác học tập.
 	2. Thực trạng 
 	2.1 Thuận lợi - khó khăn 
	2.1.1 Thuận lợi
 	- Lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh về cơ sở vật chất và các điều kiện nhà trường hiện có. 
- Ban giám hiệu năng động nhiệt tình, luôn tư vấn cho giáo viên những phương pháp dạy học tích cực.
- Giáo viên ham học hỏi, nhiệt tình đóng góp ý kiến giúp đỡ lẫn nhau, sẵn sàng chia sẻ những hiểu biết về chuyên môn để cùng nhau tiến bộ. Luôn được sự ủng hộ giúp đỡ của đồng nghiệp, nhất là anh chị em trong khối 4,5 (nhất là khối lớp 4). 
- Đồ dùng dạy học đã được trang bị, một số đồ dùng tự làm đạt hiệu quả cao.
	- Các em học sinh có đủ sách giáo khoa, đồ dùng học tập phục vụ cho môn học.
	- Học sinh có ý thức học tập, ý thức cầu tiến, chuyên cần. Đa số học sinh ham học hỏi, hay tìm tòi khám phá cái mới. 
	- Đa phần phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình.
 	 2.1.2 Khó khăn 
- Giáo viên: 
	Giáo viên chưa quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh, nhất là học sinh có hoàn cảnh học tập khó khăn. 
Sử dụng phương pháp dạy học chưa phù hợp. 
Các hoạt động dạy học còn mang phương pháp cũ, chưa có tính chủ động sáng tạo. 
Giáo viên chưa chú ý đến những học sinh yếu, chưa quan tâm đều đến các đối tượng học sinh.
Thư viện chưa có nhiều sách, báo để tham khảo. Thời gian chưa nhiều để nghiên cứu kỹ làm tốt đề tài nghiên cứu. 
- Học sinh: 
Lớp có nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình chưa có sự quan tâm đúng đắn về việc học của học sinh, một số em nhà quá xa trường. Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú. 
Khả năng đọc, hiểu chậm, tiếp thu bài chậm, không chịu khó tìm tòi phương pháp học tập. Học sinh chưa có ý thức nhận biết rõ tầm quan trọng của việc học, lười học, chưa quan tâm việc học và còn tự ti ở vùng khó khăn.
- Phụ huynh:
Đa số phụ huynh ở đây ( Ea chai) làm nghề nông, cuộc sống còn khó khăn, bận bịu với công việc ít có thời gian quan tâm đến việc học của con cái.
Một số phụ huynh còn hạn chế về trình độ văn hóa nên gặp không ít khó khăn trong việc dạy học con ở nhà.
 	2.2 Thành công - hạn chế
2.2.1 Thành công 
- Đề tài đã được khảo nghiệm ở các đối tượng học sinh trong trường, đã mang lại một số kết quả khả quan khi học sinh tiếp thu môn Địa lí 4, không còn thụ động và lúng túng khi sử dụng bản đồ, đọc bảng số liệu thống kê.
2.2.2 Hạn chế 
- Tuy vậy, đề tài được thực nghiệm trong phạm vi nhỏ, chưa được thực nghiệm rộng rải trên các đối tượng ở các vùng khác nhau nên sẽ có một số hạn chế nhất định.
	2.3 Mặt mạnh - mặt yếu
	2.3.1 Mặt mạnh
	- Đề tài có thể được thực hiện rộng rải trên tất cả học sinh tiểu học thuộc đối tượng lớp 4; học sinh dễ tiếp thu, dễ nắm được nội dung bài học ngay qua các hoạt động trực quan cụ thể 
2.3.2 Mặt yếu 
- Tuy nhiên cũng sẽ bất cập nếu dạy tại các vùng khó khăn, thiếu về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học thì hiệu quả giờ học sẽ không cao.
	2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
 	 Nguyên nhân khách quan: Phim ảnh, sách về Địa lí của ta chưa phong phú, sức hấp dẫn chưa cao. Những chương trình trên ti vi, báo đài giáo dục về phân môn Địa lí chưa nhiều, việc nắm Địa lí tự nhiên trong các tỉnh thành, các khu vực chưa được cập nhật thường xuyên trong phụ huynh do việc chia tách một số tỉnh. 
 	Nguyên nhân chủ quan: Trang thiết bị phục vụ cho môn học còn thiếu, giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt tình trong các giờ dạy Địa lí. Các hình thức dạy học còn đơn điệu khô cứng. Bản thân giáo viên có phần xem nhẹ phân môn này so với Toán và Tiếng Việt, chính vì thế khi tham gia các đợt hội giảng giáo viên rất dè dặt khi lựa chọn phân môn Địa lí. 
Qua một số năm giảng dạy ở khối lớp 4, qua trao đổi cùng đồng nghiệp và thăm dò ý kiến của học sinh tôi nhận thấy: Học sinh hiểu biết còn mơ hồ về các điều kiện tự nhiên và vị trí Địa lí của các địa danh huyện, tỉnh (thành), các nước, các khu vực trong nước và trên thế giới, không hứng thú trong giờ học Địa lí.
 	2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Học sinh đến với môn Địa lí là học sinh hình thành kỹ năng quan sát sự vật, hiện tượng, thu thập tìm kiếm tư liệu Địa lí từ sách giáo khoa, từ cuộc sống gần gũi với học sinh Học sinh biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, đặt câu hỏi với bạn bè, nhóm, với thầy cô và biết thông tin để giải đáp. Biết nhận đúng các sự vật hiện tượng Địa lí. Học sinh biết trình bày kết quả học tập qua nhiều hình thức: lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, bảng thống kê Để từ những giờ học trên lớp, các em biết đem về vận dụng vào cuộc sống thực tế, từ đó các em hình thành thái độ ham học hỏi, tìm hiểu để biết về quê hương đất nước, môi trường xung quanh. Để thêm yêu thiên nhiên, yêu biển đảo, yêu con người, yêu đất nước và khát khao được học để trở thành người có ích cho gia đình, xã hội. Trở nên năng động sáng tạo, đem hết sức mình để góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam văn minh, giàu mạnh hơn.
- Tuy nhiên, với điều kiện của học sinh ở môi trường nông thôn điều kiện thông tin đại chúng hạn hẹp, một số vùng khó khăn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc sử dụng trực quan, việc chiếm lĩnh tri thức của các em trong môn học. 
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Để phát huy tính tích cực của học sinh khi dạy môn Địa lí thì việc lựa chọn phương pháp dạy học và hướng dẫn học sinh cách học là rất quan trọng. 	
Giáo viên phải lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng loại bài, từng đối tượng học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tự khám phá ra kiến thức.
Dạy môn Địa lí cần sử dụng các phương pháp đặc trưng của nhiều môn học khác nhau. Do tính tích hợp của nội dung. Đề cao vai trò chủ thể của người học, tăng cường tính tự giác tích cực và sáng tạo của hoạt động học tập.
 	3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
 	Ở bậc tiểu học do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi học sinh nên yêu cầu về mặt tri thức của dạy học Địa lí chủ yếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng Địa lí. Bước đầu hình thành một số khái niệm, xây dựng một số mối quan hệ Địa lí đơn giản.
Để giúp học sinh học tốt một Địa lí, Tôi luôn tâm niệm: Giáo viên phải hình thành biểu tượng Địa lí và rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng Địa lí như: sử dụng bản đồ, phân tích bảng số liệu và biểu đồDo đó việc hình thành biểu tượng Địa lí và rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ là hai nhiệm vụ quan trọng của phần Địa lí ở bậc tiểu học. Theo tôi nghĩ có sử dụng tốt hai phương pháp này thì người giáo viên mới dạy tốt môn Địa lí được. 
 	1. Phương pháp hình thành biểu tượng Địa lí: Một số biểu tượng Địa lí được dạy ở Tiểu học: núi, đồi, rừng rậm nhiệt đới, đồng bằng, sông hồ, thác 
 	Với phương pháp hình thành biểu tượng Địa lí tốt nhất là cho các em quan sát các sự vật hiện tượng có thể trực tiếp quan sát được trên thực địa như: núi, rừng, lễ hội ở thị trấn, hoặc quan sát qua tranh ảnh, băng hình. 
 	Trước khi cho học sinh quan sát tôi xác định cho học sinh quan sát theo các bước cụ thể : 	
* Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát: Tùy theo nội dung học tập, tôi sẽ lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện của trường.
 	* Bước 2: Xác định mục đích quan sát: Với mỗi đối tượng địa lý, tôi xác định mục đích của việc quan sát (Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng về một con sông, nếu đối tượng quan sát là tranh ảnh, thì đặc điểm “động” của nó như hiện tượng nước chảy không nên là đối tượng quan sát của học sinh. Tuy nhiên hoc sinh có thể quan sát được nó, nếu các em được tiếp xúc với một con sông thực hoặc xem nó trong băng hình).
 	* Bước 3: Tổ chức hướng dẫn học sinh quan sát thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Hệ thống này được xây dựng dựa trên mục đích quan sát và trình độ hiểu biết của học sinh nhằm:
 	+ Hướng cho học sinh chú ý đến đối tượng quan sát. 
 	+ Điều khiển tri giác và hướng dẫn tư duy của học sinh theo hướng quan sát cần thiết.
 	+ Giúp học sinh tổng kết và khái quát những điều đã quan sát, liên hệ với các đối tượng cùng loại mà các em đã nhìn thấy, rồi rút ra những kết luận khách quan, khoa học.
 	* Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả. Tôi sẽ cùng các em trao đổi, thảo luận, xác nhận và hoàn thiện kết quả nhằm giúp các em có biểu tượng đúng về đối tượng.
 	2. Phương pháp sử dụng bản đồ: Đồ dùng dạy học không thể thiếu trong giảng dạy môn Địa lí là bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, báng số liệu  Vì bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt Trái Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt phẳng dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin về Địa lí. Do đó, giáo viên sử dụng bản đồ, lược đồ cần chính xác và hiệu quả để khai thác kiến thức mới.
Quan niệm của tôi là sử dụng bản đồ để học sinh khai thác, tìm tòi kiến thức. Nên cho từng nhóm học sinh quan sát bản đồ thay vì cho cả lớp chỉ quan sát một bản đồ. Với cách cho từng nhóm sử dụng bản đồ giáo viên phải tổ chức các hoạt động học tập để học sinh được tự tìm ra kiến thức mới trên cơ sở kết hợp giữa kiến thức với kỹ năng Địa lí mà học sinh đã có. Chính vì vậy kiến thức các em thu được bền vững hơn, đồng thời trong quá trình tìm tòi kiến thức, kỹ năng Địa lí của học sinh cũng được rèn luyện và củng cố. 
 	Sử dụng bản đồ, tôi cần hướng dẫn học sinh nắm được kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ theo các bước: 
 	* Bước 1: Nắm mục đích làm việc với bản đồ.
	 Tức là đọc tên bản đồ, để biết nội dung sử dụng cung cấp kiến thức gì cho bài học. Bước này không khó, giáo viên cần lưu ý khi tự vẽ thêm bản đồ thì phải có tên bản đồ ( có thể viết trên hoặc viết ở dưới ) 
 	* Bước 2: Xem bảng chú giải để có biểu tượng địa lí cần tìm trên bản đồ.
	 Đọc bảng chú giải, kí hiệu nào cho biết thông tin gì. Ví dụ : đường đứt khúc chỉ ranh giới giữa các tỉnh, cây dù chỉ bãi biển, chấm tròn chỉ thành phố, ..
 	* Bước 3: Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên bản đồ dựa vào ký hiệu.
Đây chính là bước kĩ năng chỉ bản đồ. Ở bước này giáo viên cũng như học sinh thường chỉ không chính xác do không thường xuyên chỉ bản đồ nên dễ lúng túng. Chỉ bản đồ có các cách chỉ sau : 
 	+ chỉ điểm ( thành phố, khoáng sản,  ) 
 	+ chỉ đường ( sông, dãy núi,  )
 	+ chỉ vùng ( chỉ vị trí giới hạn của tỉnh, thành phố, )
 	* Một số thao tác khi chỉ các biểu tượng địa lí :
- Chỉ về một địa danh, một thành phố, một tỉnh Nếu là bản đồ hành chính thì sẽ có ranh giới giữa các nước, các thành phố, tỉnh. GV chỉ theo đường ranh giới, bắt đầu ở điểm nào thì kết thúc ở điểm đó của một châu lục, một nước, một thành phố, một tỉnh muốn chỉ. Nếu là bản đồ tự nhiên thì thường một thành phố được kí hiệu bằng dấu chấm tròn, GV chỉ ngay vào chấm tròn là thành phố, hoặc chỉ các phương tiện đi lại của các vùng miền ( Xem chú giải trên bản đồ, lược đồ)
 	- Chỉ về biển, sông ngòi, Đại dương khi chỉ kéo rộng trong giới hạn của nó không lấn vào đất liền. Biển, sông, dãy núi chỉ theo hướng từ thượng lưu đổ xuống hạ lưu, từ nơi cao ( độ cao của địa hình ) xuống nơi thấp.
 	 * Bước 4: Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản của đối tượng ( Khai thác một phần kiến thức mới).
	Ví dụ : Khi chỉ vị trí của nước Việt Nam, nhận xét vị trí nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam, nằm phía cực Nam.
	Bài Đồng bằng Nam Bộ, quan sát và chỉ lược đồ xong, học sinh có thể nhận xét ngay là hệ thống sông ngòi nhiều, chằng chịt.
Bài Địa hình nước ta, dựa vào màu sắc học sinh nhận xét được ngay đồi núi nhiều hơn đồng bằng.
Bài Người dân ở đồng bằng Nam Bộ, quan sát, nhận xét trang phục của người dân ở dồng bằng Nam Bộ
* Bước 5: Xác lập mối liên hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần như địa hình và khí hậu: địa hình, khí hậu, sông ngòi, thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người 
	 Ví dụ: Khi học sinh chỉ được vị trí nước ta, phía Đông giáp biển Đông, đường bờ biển kéo dài như thế thì sẽ thuận lợi để phát triển ngành nào? (đánh bắt thủy hải sản ). Đó chính là mối quan hệ giữa vị trí địa lí và hoạt động sản xuất.
* Một số lưu ý : 
	- Tư thế khi thao tác là mặt quay xuống phía học sinh, có thể đứng bên trái hay bên phải tùy thuộc giáo viên thuận tay nào.
	- Sử dụng dụng cụ chỉ bản đồ, không dùng tay thao tác.
	- Giới thiệu biểu tượng muốn chỉ rồi thao tác, hoặc thao tác trước rồi giới thiệu biểu tượng, tránh vừa thao tác vừa giới thiệu rất dễ sai.
	- Bản đồ, lược đồ khi treo trên bảng cần đủ lớn để tất cả học sinh có thể quan sát được( trường hợp nhỏ phát về nhóm cho các em tự quan sát ).
	- Giáo viên và học sinh nên thường xuyên thao tác trên bản đồ để giúp học sinh nhuần nhuyễn khi lên học lớp trên.
 	Để giúp học sinh khai thác được kiến thức từ bản đồ. Tôi phải trang bị cho các em một số kiến thức, kỹ năng tối thiểu cần thiết để biết cách làm việc với bản đồ như: xác định phương hướng trên bản đồ, nắm được ký hiệu trong bảng chú giải, có biểu tượng về những sự vật và đối tượng Địa lí trên bản đồ, nghĩa là đọc và hiểu được ký hiệu trên bản đồ.
 	3. Ngoài hai phương pháp chính: Tùy dạng bài mà tôi kết hợp thêm một số phương pháp để giúp giờ học thật sinh động, thật bổ ích hấp dẫn đối với các em. Giáo viên cần huy động tối đa kinh nghiệm và vốn kiến thức có sẵn vào việc dẫn dắt các em tự phát triển tri thức mới của bài học. Thiết kế hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho học sinh thực hiện với sự hướng dẫn cần thiết. Tổ chức các hoạt động như trò chơi học tập, sắm vai Nhằm qua đó giúp học sinh lĩnh hội kiến thức. Đó là ta đã dạy học đề cao vai trò chủ thể nhận thức của học sinh.Ngoài ra tôi vẫn thường xuyên dạy tự học cho học sinh. Đó là rèn cho các em khả năng tự học ngay trong quá trình học tập ở trên ghế nhà trường.Vì vậy quá trình dạy học bao gồm cả dạy tự học, vì trong nhà trường học sinh không thể học hết khối lượng tri thức nhân loại ngày càng tăng nhanh trong mọi lĩnh vực. Việc học cần phải diễn ra ra suốt đời của học sinh. Đề cao vai trò chủ thể của học sinh trong học tập chính là điều kiện quan trọng cho việc dạy tự học. Bởi vì học là “sự biến đổi bản thân mình trở nên có giá trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới lấy từ bên ngoài”
 	Môn Địa lí lớp 4 có nhiều dạng bài khác nhau, để giúp học sinh học tốt giáo viên nên : 
 	4. Hướng dẫn học sinh cách học theo từng loại bài: 
 	Phần Địa lí lớp 4 bao gồm hai mảng lớn: Địa lí đất nước và Địa lí thế giới 
 	Mảng Địa lí đất nước: Đề cập tới các vấn đề: 
- Đặc điểm tự nhiên 
- Đặc điểm dân cư 
- Đặc điểm kinh tế 
Đây là sự khái quát hoá các kiến thức Địa lí mà học sinh đã học ở lớp dưới, nâng lên thành đặc điểm về tình hình và sự phân bố của các yếu tố địa lý trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy quá trình dạy học, giáo viên nên vận dụng các câu hỏi gợi mở giúp học sinh liên hệ, tập hợp các kiến thức đã có vào vào một hệ thống kiến thức địa lý với cấu trúc chặt chẽ và qua đó nâng tầm hiểu biết các hiện tượng sự vật Địa lí đơn lẻ, cụ thể lên trình độ hiểu biết trừu tượng , khái quát về đặc điểm Địa lí Việt Nam. 
 	Mảng Địa lí thế giới: Đề cập đến những đặc điểm chung nhất về tự nhiên dân cư, kinh tế của các châu lục và sơ lược một vài đặc điểm của một số quốc gia thuộc châu lục đó. Đề cập tới Địa lí là đề cập tới không gian rộng lớn các kiến thức mới mẻ và xa lạ với học sinh. Vì vậy giáo viên phải hình thành chohọc sinh biểu tượng về Địa lí và thường xuyên sử dụng bản đồ. Giúp học sinh xác định được các vị trí các sự vật, hiện tượng, sử dụng tranh ảnh cũng như lời miêu tả của giáo viên để học sinh hình dung ra sự vật đó biểu hiện như thế nào? 
 	Tuy nội dung khác nhau nhưng nhìn chung các bài Địa lí được trình bày theo một số dạng nhất định. Tùy dạng bài mà áp dụng những phương pháp cho phù hợp. 
* Dạng bài thông báo kiến thức bằng kênh chữ kết hợp kênh hình: Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét rút ra bài học. 
 	* Dạng bài thực hành: Ở những bài này, kênh hình, biểu đồ, bảng chứa đựng thông tin cần thiết, học sinh phải biết sử dụng chúng, phân tích, nhận xét và rút ra kiến thức bài học. Khi dạy bài này giáo viên vừa hình thành cho học sinh kỹ năng học tập Địa lí và biết vận dụng để phát hiện và lĩnh hội kiến thức của bài. Học sinh cần tự lực làm việc dưới sự chỉ đạo của giáo viên.
 	* Dạng bài kết hợp của hai dạng bài trên: Kênh chữ và kênh hình cùng cung cấp thông tin 
 	Nhưng ở tất cả mọi dạng bài thì phương pháp sử dụng bản đồ và hình thành biểu tượng Địa lí vẫn là quan trọng trong giờ học môn Địa lí lớp 4. Nhưng quan trọng hơn hết thiết nghĩ đó là sự nhiệt tình, tâm huyết của người giáo viên để làm sao giờ học trở nên sôi động, tích cực, say mê đối với học sinh. Để các em thực sự yêu mến và mong đợi giờ học.
 	3.3 Điều

Tài liệu đính kèm:

  • docth_31_8848_2021904.doc