Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp (New)

Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp (New)

Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục đạt kết quả cao cần phải có kế hoạch sát đúng, phù hợp.

Trong kế hoạch giáo dục phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục khác để đạt mục đích đề ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến mục đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.

- Xây dựng kế hoạch chủ nghiệm lớp đòi hỏi phải khoa học. Tránh tình trạng tùy hứng, tùy tiện, qua loa. Vì thế xây dựng kế hoạch chủ nhiệm là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả giáo dục học sinh:

+ Nắm được kế hoạch, chương trình giáo dục của nhà trường.

+ Nắm bắt tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm từ các thông tin nói trên GVCN dự kiến kế hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai đoạn. Sau đó, phác thảo kế hoạch chủ nhiệm thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian.

+ Sau khi phác thảo kế hoạch, GVCN cần tham khảo ý kiến đông nghiệp và đội tự quản lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết.

- Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch: GVCN luôn có sự chỉ đạo tốt để đạt hiệu quả như mong muốn.

 

doc 25 trang Người đăng vansu03h Lượt xem 2454Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp (New)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều này sẽ giúp giáo viên tiếp cận học sinh dễ dàng hơn và tìm hiểu tâm lý cũng như hoàn cảnh học sinh thuận lợi hơn. 
Ba là, GVCN phải có đức, điềm tĩnh, biết kiềm chế và kiên nhẫn, mới có thể lựa chọn dùng các phương pháp giáo dục đúng đắn, đừng thể hiện sự bực tức, có hành vi bạo lực là điều quan trọng, vì bạo lực sẽ đẻ ra bạo lực. Học sinh sẽ dùng hành vi đó để hành xử tiếp với người khác, hoặc ngay chính người GVCN sẽ bị học sinh hành xử lại như thế.
Bốn là, sẵn lòng giúp đỡ các em khi có hoàn cảnh khó khăn. Sống với một trái tim tràn ngập tình yêu thương sẽ giúp cho học sinh cảm thấy được là có người luôn quan tâm đến các em, lo lắng cho các em, là một hậu phương tinh thần vững chắc để cho các em yêu đời và lạc quan hơn, có như thế sẽ là một động lực thúc đẩy các em học tập tốt hơn. 
Tóm lại, học sinh trong độ tuổi này phát triển, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện, trong đó, có những học sinh do hoàn cảnh xuất thân, cá tính đặc biệt, khó giáo dục nên gia đình phải hỗ trợ rất nhiều, giáo viên phải hết sức kiên nhẫn. Giáo viên đều phải là tấm gương tốt để các em thấy hành vi không đúng của mình, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh và xóa dần đi những lệch lạc của các em, các em sẽ chú tâm đến việc học nhiều hơn.
2.2. Tạo niềm tin đối với học sinh
Ở lứa tuổi này các em đang còn rất vô tư, thật thà, đòi hỏi sự công bằng trong công việc, trong học tập cũng như trong cách đối xử. Do đó khi tiếp xúc với các em cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị, đảm bảo công bằng trong: cách cho điểm; đánh giá học lực, hạnh kiểm; xử lý những mâu thuẫn của học sinh với học sinh, mâu thuẫn giữa học sinh với giáo viên; đặc biệt người GVCN cần phải thực hiện đúng lời hứa...
Như vậy, công bằng, tế nhị, khéo léo sẽ tạo được niềm tin đối với các em, các em luôn tin tưởng đồng thuận theo định hướng, kế hoạch phương pháp của giáo viên. Từ đó, sẽ đưa phong trào của lớp tiến bộ, kết quả học tập của các em cao hơn, lớp đoàn kết, hăng hái tham gia các phong trào của nhà trường... 
2.3. Tiếp cận và tìm hiểu hoàn cảnh
Khi đã tạo được niềm tin, hình tượng tốt đối với học sinh thì việc tiếp cận đối với học sinh rất dễ dàng. Với thuận lợi đó giáo viên tìm hiểu thêm được tâm tư, nguyện vọng của các em, biết các em cần gì? Muốn gì? Và làm gì? Tuy nhiên, trong giao tiếp sự ân cần và tế nhị của giáo viên sẽ không làm bộc phát được những bản chất xấu của các em, do đó để rõ hơn bản chất của các em giáo viên phải tiếp cận thêm phụ huynh học sinh và những người xung quanh các em, từ đó mới đưa ra những phương pháp hợp lý để giáo dục các em. 
Mục tiêu của phương pháp đặt ra trong năm học là tiếp cận những học sinh, gia đình học sinh yếu kém, học sinh cá biệt của lớp sau đó sẽ tiếp cận những đối tượng còn lại sao cho đến nửa đầu học kỳ II thì tất cả gia đình học sinh đều tiếp xúc đầy đủ.
Thực tế trong lớp chủ nhiệm của tôi, có đến 07 em học sinh có hoàn cảnh gia đình thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, điều này đả ảnh hưởng phần nào đến việc học tập của các em mặc dù đã có sự hỗ trợ từ những chính sách của Đảng, nhà nước và của nhà trường.
2.4. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục đạt kết quả cao cần phải có kế hoạch sát đúng, phù hợp.
Trong kế hoạch giáo dục phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục khác để đạt mục đích đề ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến mục đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.
- Xây dựng kế hoạch chủ nghiệm lớp đòi hỏi phải khoa học. Tránh tình trạng tùy hứng, tùy tiện, qua loa. Vì thế xây dựng kế hoạch chủ nhiệm là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả giáo dục học sinh:
+ Nắm được kế hoạch, chương trình giáo dục của nhà trường.
+ Nắm bắt tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm từ các thông tin nói trên GVCN dự kiến kế hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai đoạn. Sau đó, phác thảo kế hoạch chủ nhiệm thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian.
+ Sau khi phác thảo kế hoạch, GVCN cần tham khảo ý kiến đông nghiệp và đội tự quản lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết.
- Chỉ đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch: GVCN luôn có sự chỉ đạo tốt để đạt hiệu quả như mong muốn.
+ Phổ biến rõ công tác cho tập thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch, biến kế hoạch thành chương trình hành động cụ thể.
+ Chuẩn bị các điều kiện vật chất và kỹ thuật để thực hiện các hoạt động.
+ Phối hợp với đội ngũ cán bộ tự quản thực hiện và điều hành công việc quản lý lớp.
+ Theo dõi kiểm tra và điều chỉnh hoạt động để các hoạt động đi đúng hướng.
+ Kết thúc một công việc cần tổng kết đánh giá phân tích ưu điểm và hạn chế rút kinh nghiệm.
+ Có sự khuyến khích tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực, thiếu cố gắng.
+ Triển khai các hoạt động tiếp theo.
- Trong kế hoạch chủ nhiệm cần đặt ra các yêu cầu ngày càng cao nhưng vừa sức với học sinh để kích thích sự tiến bộ không ngừng.
- GVCN khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ thể trong năm học. Thông qua Đại hội Chi đội đầu năm học, tập thể đã đưa ra các chỉ tiêu cụ thể như sau:
Chất lượng
Giỏi - Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
Học lực
05
11%
14
32%
18
41%
7
16%
-
-
Hạnh kiểm
30
68%
14
32%
-
-
-
-
-
-
+ Đạt lớp Tiên tiến xuất sắc, Chi đội vững mạnh.
+ Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả xuất sắc trong tất cả các hoạt động được giao.
+ Duy trì sĩ số: đạt 100%
* Sắp xếp chỗ ngồi:
- Chú ý các em có nhu cầu về tai mắt.
- Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao ngồi sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn; Tỉ lệ Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau).
- Chú ý những em có cùng khuyết điểm.
2.5. Tổ chức bộ máy quản lý chặt chẽ, có khoa học
Trong công tác quản lý lớp, việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp sẽ rèn luyện cho các em có khả năng lãnh đạo, mạnh dạn, linh hoạt, tự tin, rèn luyện kỹ năng sống cho các em, đồng thời đào tạo được một con người có bản lĩnh. 
Ngoài ra việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp còn giúp cho GVCN quản lý tất cả các mặt nề nếp, đạo đức, tác phong, học tập, vệ sinh... khi giáo viên không đến lớp và nắm được tình hình của lớp hàng ngày chặt chẽ hơn.
a. Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp
Công việc này yêu cầu GVCN phải thường xuyên đến lớp vào đầu buổi học (sinh hoạt 15 phút đầu giờ), hoặc giờ ra chơi; cuối buổi học. Để rèn cho học sinh tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác. Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với GVCN.
Đầu tiên GVCN cần xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp:
- Có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng gương mẫu.
- Tính tình thẳng thắn, giám đấu tranh, giám phê bình.
- Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
- Có khả năng học tập tốt: Từ khá trở lên.
- Được tập thể lớp tín nhiệm.
- Có hoàn cảnh gia đình thuận lợi.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần tìm hiểu thông qua GVCN cũ, bạn bè trong lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc giao một số công việc.
Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cần bồi dưỡng cho các em có ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê bình. Bồi dưỡng cho các em có phương pháp quản lý lớp.
Mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng tới, lập sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban một lần vào thứ 6 để thứ 7 có số liệu sinh hoạt và khen, chê kịp thời.
Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cũng cần chú ý chọn đúng nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho đội  ngũ cán bộ lớp.
Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp theo sơ đồ sau:
Lớp trưởng
Lớp phó lao động
Lớp phó học tập
Lớp phó văn thể 
Tổ 1
Tổ 2
Tổ 3
Tổ 4
Nhìn theo sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp gồm có: 
- Một lớp trưởng: chịu trách nhiệm chung tất cả các mặt của lớp.
- Ba lớp phó: hỗ trợ lớp trưởng quản lý tổ chức các mặt hoạt động của lớp về: nề nếp học tập, lao động vệ sinh và văn hóa văn nghệ theo chức danh.
- Cuối cùng lớp được chia làm 4 tổ học tập, mỗi tổ đều có một tổ trưởng, một tổ phó chịu trách nhiệm quản lý các mặt hoạt động của tổ. 
b. Cơ chế vận hành của tổ chức quản lý lớp
Ngoài vai trò cán bộ lớp vừa nêu trên, đặc điểm nổi bật của cơ chế vận hành này là: 
Có thể thay đổi vị trí lãnh đạo của cán bộ lớp (nếu cán bộ lớp không thực hiện đúng chức năng của mình, do đặc thù các em là học sinh lớp 6). 
Hàng ngày, sau mỗi buổi học tất cả các nhóm trưởng các tổ báo cáo tình hình của tổ cho lớp trưởng và lớp trưởng sẽ tổng hợp các báo cáo đưa ra kết luận điểm mạnh, điểm yếu của lớp bằng văn bản nộp cho GVCN vào cuối tuần học để GVCN nắm được tình hình của lớp, tiếp theo lớp trưởng ghi nhận những tồn tại, yếu kém của lớp qua đầu buổi học sau sinh hoạt cho lớp rút kinh nghiệm để cho các thành viên trong lớp tự điều chỉnh hành vi của mình ngày càng tiến bộ hơn.
Đầu năm học, GVCN lớp sẽ hướng dẫn công tác lao động trực vệ sinh lớp: 02 học sinh/buổi (2 em ngồi kề nhau), sau đó bàn giao lại cho lớp phó lao động. Nếu trong tuần có học sinh vi phạm thì học sinh đó phải chịu trách nhiệm vệ sinh lớp vào tuần tiếp theo.
Tóm lại, với cơ chế vận hành này, GVCN dễ nắm bắt được tình hình của lớp kịp thời, các em học sinh sẽ tự giác, nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình, giảm đi những hành vi vi phạm nội qui nhà trường, học sinh đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời sẽ rèn luyện cho các em là người có bản lĩnh, giải quyết được vấn đề khó khăn trong học tập và trong cuộc sống.
Cụ thể trong gần một năm học qua nhờ việc chọn được đội ngũ cán bộ lớp: Lớp trưởng là em Vy ; lớp phó học tập là em Hải Anh; lớp phó lao động là em Quang Anh; lớp phó văn thể là em Huyền; một số cán sự bộ môn... Nhờ đó tôi đã rất dễ dàng trong công tác chủ nhiệm, nhiều khi GVCN do một số lý do nào đó không trực tiếp quản lý đôn đốc các em nhưng các em vẫn hoàn thành tốt công việc học tập và rèn luyện.
Đúng vậy quản lý lớp việc này phải dựa vào ban cán sự lớp và Ban chỉ huy chi đội. Điều quan trọng là phải chọn được những học sinh nhiệt tình và có năng lực công tác. Song dù có năng lực tốt thế nào thì các em vẫn đang ở lứa tuổi học trò, do đó GVCN phải giáo dục cho học sinh ý thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của người cán bộ lớp để các em thực sự có trách nhiệm, và nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với công tác được giao.
Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng năm học và tính chất phát triển của tập thể học sinh. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa vào đặc điểm của quá trình phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản. Nên căn cứ vào 3 giai đoạn phát triển của tập thể lớp mà lựa chọn đội ngũ tự quản. Ví dụ: ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một lớp trưởng (thủ lĩnh) biết hi sinh, có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu, biết cảm hoá các bạn..., không nhất thiết phải là học sinh học giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2 và 3 (khi tập thể đã phát triển) rất cần có “thủ lĩnh” năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động mọi mặt để cuốn hút các bạn. GVCN nên lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động ngoại khoá, văn hoá xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể, rèn luyện năng lực tự quản, thái độ, tình cảm và hành vi của học sinh.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của học sinh trong lớp, biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện của mỗi tháng, mỗi học kì của từng năm học. GVCN chỉ là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá. Điều đó không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể lớp học mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong ban cán sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”, biết phấn đấu vì tập thể và biết tự giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi không có GVCN. Sử dụng phiếu giao việc cũng là một hình thức tạo cho học sinh phát huy tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Trên cơ sở được giao việc học sinh phải tự lập kế hoạch và GVCN hẹn thời gian để duyệt. Nhìn chung được giao việc và nhất là được thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân chủ và tự quản các em rất phấn khởi và tất nhiên phải rút kinh nghiệm, khen chê kịp thời (trong một năm học, ban cán sự ít nhất được động viên, khen thưởng hai lần vào dịp sơ kết học kỳ I và tổng kết năm học).
2.6. Biết lắng nghe học sinh (là một nhà tư vấn tâm lý)
Cũng như đã trình bày ở trên, lứa tuổi này rất vô tư, thật thà...; hay thưa chuyện cho GVCN; có những thắc mắc không thể giải bày cùng ai; hoặc có những em môi trường sống trong gia đình khó khăn về kinh tế, thiếu tình thương, sự quan tâm với nhau trong gia đình, nên có khi các em tự hành động mang tính mâu thuẫn, ấu trĩ. Do đó GVCN phải tiếp cận với các em, tạo niềm tin đối với các em, để là chỗ dựa tinh thần để cho các em giãi bày tâm sự, giúp các em giải tỏa căng thẳng tâm lý, phải biết lắng nghe và kiềm chế xúc cảm của mình, cần có thái độ cởi mở khi học sinh thắc mắc, nhằm tạo bầu không khí tâm lý vui tươi, lành mạnh từ đó sẽ giúp giáo viên thuận lợi trong công tác giáo dục nhân cách học sinh. 
Để nắm bắt tâm tư của các em sâu hơn, khi kết thúc học kì I, tôi đã tạo điều kiện cho các em mạnh dạn chia sẻ những suy nghĩ của bản thân các em về chính các em, về tập thể lớp, về gia đình, về bạn bè và về cả GVCN lớp trên những trang giấy, mà điều này chỉ có GVCN cùng với em học sinh đó biết.
Điều này đã giúp các em cởi mở hơn, tự tin hơn và làm cho tình cảm thầy trò ngày càng gắn kết hơn.
2.7. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc giáo viên bộ môn
Trong học tập, học sinh sẽ gặp trở ngại về phương pháp giảng dạy của giáo viên, có những phương pháp cứng nhắc nhàm chán hay có những giáo viên quá nghiêm khắc tạo bầu không khí học tập nặng nề chỉ biết la ó, chửi mắng dẫn đến các em không hứng thú học tập dẫn đến tình trạng học sinh cúp tiết, trốn học. 
Việc dự giờ thăm lớp rất cần thiết, nó sẽ giúp cho GVCN nắm bắt được tình trạng không khí học tập của lớp, nguyên nhân vì sao học sinh không thích học, không hiểu bài, hay cúp tiết, trốn học và đưa ra giải pháp kịp thời giúp học sinh ổn định tâm lý, củng cố lại sự hứng thú học tập của các em, đồng thời giúp GVCN nắm được những thiếu sót trong phương pháp giảng dạy của GVBM và đóng góp chân thành, khéo léo, tế nhị sẽ giúp cho giáo viên bộ môn điều chỉnh lại phương pháp giảng dạy của mình, giúp học sinh hiểu bài, thích học bộ môn mình hơn. 
Ngoài ra, việc liên hệ thường xuyên với giáo viên bộ môn sẽ giúp cho GVCN nắm rõ được mức độ học tập, nề nếp của lớp hàng ngày.
2.8. Giáo dục học sinh cá biệt
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh nghịch ngợm, cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ giúp GVCN có biện pháp giáo dục tốt sẽ là động lực để xây dựng được tập thể lớp vững mạnh.
+ GVCN phải tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm hiểu điểm yếu của học sinh.
+ Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, gia đình.
+ GVCN không được nóng vội, uốn nắn dần, khi đưa ra tập thể lớp không nói nhiều, khi gặp riêng không được chì trích mà nhẹ nhàng tâm sự và phân tích.
+ Giao cho học sinh cá biệt một số việc và sau đó phải động viên khuyến khích kịp thời những việc em làm tốt.
+ Lập kế hoạch cho cán sự lớp để thành lập các đôi bạn cùng tiến.
+ Luôn thông báo kịp thời các thông tin về học sinh với gia đình và ngược lại.
Như vậy đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng đối với những học sinh có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa nghiêm khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên, thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn. Có những học sinh khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị kỷ luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm thầy giáo buồn
Một số em học sinh hay vi phạm nội quy, nề nếp.
Trong lớp, có em một số em học sinh cá biệt, hay nghịch phá, lười nhát trong học tập như: Việt, Tường, Đạt, Doanh Các em hay vi phạm về đồng phục, mất trật tự trong giờ học, thậm chí còn điều khiển xe máy, hút thuốc Tôi đã sắp xếp thời gian đến thăm gia đình các em học sinh này hoặc liên lạc trực tiếp qua điện thoại với phụ huynh Tìm hiểu nguyên nhân từng em, từ đó kết hợp thêm với gia đình trong việc giáo dục các em. Vì thế các em đã phần nào tiến bộ và tham gia rất tích cực vào các hoạt động của lớp.
Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp cho mình hiểu học sinh hơn, tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp hằng ngày. Thi thoảng tôi lại cho học sinh viết cảm nhận về lớp mình. Có những điều thường ngày có khi khó nói ra được, nhưng khi viết cảm nhận hoặc ghi nhật kí lớp các em lại có dịp để giãi bày (đã đề cập ở phần trước). Qua những bài cảm nhận và những trang nhật ký lớp, thầy trò, bạn bè hiểu nhiều về nhau hơn và đương nhiên tập thể lớp ngày càng thêm gắn bó.
2.9. Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp
GVCN nhất thiết phải dự giờ sinh hoạt lớp và xem trước kế hoạch sinh hoạt lớp của lớp trưởng và các tổ, GVCN lên một kế hoạch sinh hoạt riêng cho mình. Khi dự sinh hoạt lớp dưới sự điều khiển riêng của lớp trưởng, GVCN cần so sánh các số liệu với tuần trước, khen chê phải hợp lý, nhẹ nhàng  để cho các em chấp nhận, không được chì trích.
- Lớp trưởng điều khiển tiết sinh hoạt: Nhận xét tuần đọc kế hoạch tuần tới.
- GVCN là người dự, góp ý kiến, nhận xét cuối buổi.
- Các tổ trưởng lần lượt thông báo kết quả theo dõi và xếp loại của tổ, thành viên trong tổ nêu ý kiến.
- Cờ đỏ nhận xét, đọc kế hoạch đội.
- GVCN nhận xét, khen chê kịp thời, đưa ra ý kiến, nêu kế hoạch tuần tới.
- Thư ký ghi biên bản: GVCN, lớp trưởng ký xác nhận.
Tuy nhiên cách thức tổ chức các giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ kiểm điểm học sinh, hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc. Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành những hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho tương lai, sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ ước tuổi trẻ, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn minh trong cách tặng quà,... Có thể thay những lời phê bình gay gắt bằng một câu chuyện nào đó. Chẳng hạn: để nhắc nhở các em việc đi học đầy đủ, nghỉ học phải viết giấy xin phép tôi kể câu chuyện Bác Hồ khi đã làm Chủ tịch nước, một lần phải đi công tác nước ngoài, Bác đã viết giấy xin phép nghỉ kỳ họp Quốc hội. Kết quả là những lớp tôi được phân công chủ nhiệm học sinh rất hạn chế nghỉ học và hầu như không có hiện tượng học sinh nghỉ học không xin phép.
Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ sinh hoạt rõ ràng đỡ căng thẳng hơ

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN CHU NHIEM LOP THCS_12871167.doc