Một số biện pháp rèn cho trẻ 4 - 5 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh tại trường Mầm non Bình Minh- Buôn Tuôr A- Xã Dray Sap- Huyện Krông Ana - Tỉnh Đăklăk

Một số biện pháp rèn cho trẻ 4 - 5 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh tại trường Mầm non Bình Minh- Buôn Tuôr A- Xã Dray Sap- Huyện Krông Ana - Tỉnh Đăklăk

Để rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh thì cần phối hợp nhiều giải pháp, biện pháp với nhau. Những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ cho nhau, có sự lôgic, xâu chuỗi với nhau. Biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh trong các hoạt động hằng ngày trên lớp của trẻ, biện pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường, Biện pháp làm gương cho trể noi theo sẽ hỗ trợ cho các biện pháp khác. Các biện pháp trên hỗ trợ qua lại chặt chẽ với nhau đã tạo nên những giải pháp tốt nhằm làm cho trẻ có môi trường rèn thói quen vệ sinh hành vi văn minh cho trẻ đạt hiệu quả cao hơn. Bởi lẽ khi thực hiện các biện pháp trên có nghĩa là phải thực hiện xuyên suốt vào hệ thống hoạt động của 1 ngày của trẻ nên trẻ luôn luôn được sống trong môi trường có sự giáo dục đinh hướng của giáo viên. Nên các biện pháp luôn luôn có sự tương tác hỗ trợ và đang xen lẫn nhau.

doc 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 4576Lượt tải 9 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp rèn cho trẻ 4 - 5 tuổi thói quen vệ sinh và hành vi văn minh tại trường Mầm non Bình Minh- Buôn Tuôr A- Xã Dray Sap- Huyện Krông Ana - Tỉnh Đăklăk", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếp xúc hằng ngày với trẻ lớp tôi. Tôi nhận thấy trẻ lớp tôi thói quen vệ sinh tốt chưa được hình thành, hành vi ứng xử văn minh có văn hóa với mọi người xung quanh còn nhiều hạn chế. Vì vậy mà tôi luôn quan tâm và có kế hoạch giáo dục hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ đơn giản và cơ bản nhất cho trẻ.
- Trong thực tế khi thực hiện đề tài này tôi cũng gặp phải một số ưu điểm và hạn chế sau:
* Ưu điểm:
- Được sự quan tâm của của Phòng Giáo dục- Đào tạo thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên được trao dồi kiến thức tăng thêm sự hiểu biết và cập nhật thông tin mới cũng như các vấn đề khác xoay quanh vấn đề chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Ban giám hiệu nhà trường đã đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đồ dùng đồ chơi sạch sẽ, đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, được sự tín nhiệm của quý phụ huynh đã tin cậy gửi gắm con em mình đến trường, lớp.
- Được sự trợ giúp của đồng nghiệp đặc biệt là những đồng nghiệp có kinh nghiêm lâu năm trong công tác giảng dạy.
- Trẻ được ăn ở bán trú tại trường nên cô có cơ hội tiếp xúc với mọi hoạt động của trẻ để định hướng cho trẻ.
 - Bản thân yêu nghề, nhiệt tình trong công tác, trình độ đạt chuẩn và đang theo học trình độ chuyên môn trên chuẩn để thuận lợi và năng cao chất lượng giảng dạy.
- Có khả năng định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động rèn cho trẻ thói quen vệ sinh hành vi văn minh phù hợp với lứa tuổi trẻ.
* Hạn chế:
+ 94,1% trẻ trong lớp là con em người đồng bào dân tộc thiểu số, đến lớp chưa thường xuyên
+ Đa số phụ huynh làm nghề nông nên chưa quan tâm đến việc đưa trẻ đến trường thường xuyên.
+ Gia đình còn mang đậm tính phong tục tập quán của cộng đồng, vùng miền, nên công tác hình thành cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cũng gặp không ít khó khăn.
+ Một số phụ huynh lo làm ăn kinh tế nên chưa thực sự quan tâm đến việc phối hợp cùng nhà trường, cùng cô giáo để phối hợp giáo dục trẻ.
+ Lối giáo dục sai phương pháp của phụ huynh: dùng bạo lực, áp đặt, cứng nhắclàm cho trẻ thụ động, không làm chủ bản thân.
- Giáo viên vì không phải người bản địa nên không hiểu được hết tâm tư tình cảm nguyện vọng của trẻ, do trẻ còn giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phương nhiều.
* Khảo Sát thực trạng ban đầu 34 trẻ trong lớp
Nội dung khảo sát 
Trước khi thực hiện
+ Số trẻ có hành vi ứng sử văn minh ( biết chào hỏi, cảm ơn, biết xin lỗi khi làm điều sai, biết giúp đỡ bạn bè, thực hiện nghiêm túc quy định giờ giấc của lớp.)
11/34 trẻ = 32,3%
+ Số trẻ chưa hình thành được hành vi ứng xử văn minh
12/34 trẻ = 35,3%
+ Số trẻ đã có được thói quen vệ sinh cơ bản( Tự Đánh răng, đi vệ sinh đúng nơi quy định, cầm được thìa ăn cơm, tự mặc quần áo, bỏ rác đúng nơi quy định, biết rữa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh)
14/34 trẻ = 41,1%
+ Số trẻ chưa có kỹ năng vệ sinh
15/34trẻ = 44,1%
* Các nguyên nhân chủ quan và khách quan.
+ Nguyên nhân chủ quan:
- Đôi khi vẫn còn một số trẻ nhanh chán với việc tham gia vào các hình thức tổ chức rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh, vốn tiếng việt của trẻ còn hạn chế nên cũng gặp trở ngại
- Những hành động đúng của trẻ trong giao tiếp hằng ngày cô chưa kịp thời khen thưởng và tuyên dương trước lớp, chưa phân tích được vì sao đúng cho trẻ hiểu được tính chất của sự việc
- Trẻ còn nhút nhát trong các hoạt động, tiếp xúc với cô chưa thật sự gần gũi với cô, một số trẻ còn cô lập với bạn với các trò chơi trong lớp.
- Chưa nhận được sự đồng tình giúp đở, hợp tác từ phía phụ huynh.
- Chính những tập tục, thói quen của sinh hoạt gia đình làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh của trẻ.
+ Nguyên nhân khách quan:
- 94,1% học sinh là con em người đồng bào dân tộc thiểu số, có đến 20% các em mới đến trường, 60% trẻ nói tiếng mẹ đẻ, phát âm chưa chuẩn tiếng việt 40%, ngôn ngữ là khoảng cách khó khăn nhất trong giáo tiếp giữa cô với trẻ, có một số vấn đề cô truyền đạt nhưng trẻ không hiểu hết ý nên chưa thục hiện đúng yêu cầu.
- Phụ huynh học sinh là cộng sự đắc lực nhất trong con đường giáo cho trẻ nhưng đa số phụ huynh là lao động nghèo nên chưa quan tâm đến việc phối hợp cùng nhà trường chăm sóc giáo dục trẻ.
- Còn mang đậm tính tự do hoang dã của cộng đồng nên chưa có khái niệm hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
3. Giải pháp và biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Thông qua các giải pháp, biện pháp để “Rèn thói quen vệ sinh- hành vi văn minh cho trẻ” góp phần hình thành cho trẻ một nhân cách tốt có những hành vi đúng, từ đó trẻ sẽ trở thành một công dân tốt của xã hội, biết tránh nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Là tiền đề để trẻ tự khẳng định chính bản thân mình trong cuộc sống.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Biện pháp rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ, để trẻ tích cực hoạt động và nổ lực với những tác động của cô giáo đến trẻ. Để đạt được kết quả cao nhất chúng ta cần phối hợp sử dụng các giải pháp, biện pháp sau:
* Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch và tạo môi trường để giáo dục thói quen vệ sinh - hành vi văn minh cho trẻ.
- Muốn giáo dục trẻ có thói quen vệ sinh, hành vi văn minh không thể ngày một ngày hai là hình thành được, việc tập cho trẻ thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định không chỉ rèn cho trẻ tự lập, làm chủ hành vi của mình cũng như tập cho trẻ tự phục vụ bản thân có nếp sống văn minh ngay từ nhỏ thì người giáo viên cần phải lên kế hoạch cụ thể cho từng hoat động để hướng dẫn cho trẻ.
- Trước tiên, giáo viên cần phải nắm được yêu cầu rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. Trẻ phải tự phục vụ bản thân, tự làm, tự học hỏi lẫn nhau.
+ Sáng đến lớp trẻ phải biết chào hỏi cô giáo, bố mẹ cũng như anh chị lớn tuổi hơn mình.
+ Trước khi vào lớp thì giày dép, mũ nón, cặp thì để ở nơi quy định.
+ Khi đi vệ sinh thì trẻ phải biết xin phép và đi đúng nơi quy định. Đi vệ sinh ở đâu, đi xong thì cần phải làm gì?
Ví dụ: Khi trẻ đi vệ sinh xong trẻ phải biết bấm nút để xả cho sạch bồn vệ sinh, sau khi đi vệ sinh xong thì lấy xà bông để rửa tay cho sạch, tránh vi khuẩn còn bám ở tay.
+ Ra ngoài dạo chơi thì cần phải mang dép, đội mũ nón và không được chửi thề cũng như đánh bạn hay các em nhỏ tuổi hơn mình.
Ví dụ: Khi phát hiện ra bạn hay nói tục chửi thề, cô liền gọi bạn nhỏ đó lại, giáo dục trẻ cách nói chuyện như vậy là không tốt, không ngoan, chỉ những bạn nhỏ hư mới như vậy thôi, nếu muốn được mọi người yêu mến thì mình phải là đứa trẻ ngoan thì mới được cô cũng như các bạn quý mến.
+ Nên tập cho trẻ đi vệ sinh theo nhóm hoặc tổ, để dễ dàng quan sát và hướng dẫn cách đi vệ sinh đúng nơi quy định.
 Ví dụ : Khi cô cho cả lớp đi vệ sinh, đông trẻ quá cô sẽ không bao quát được hết trẻ trong lớp đã thực hiện đúng hay chưa, có nhiều cháu không đi vệ sinh đúng nơi quy định thì cô gọi riêng từng cháu lại và hướng dẫn cho cháu đi vệ sinh đúng nơi quy định. Vì thế, cô giáo cần cho trẻ đi vệ sinh theo nhóm hoặc tổ để đảm bảo trẻ đã đi đúng nơi quy định.
+ Trước khi đến giờ ăn, cô sẽ tập trung trẻ lại, cho trẻ xếp hàng và lần lượt cho trẻ rửa tay dưới vòi nước sạch theo đúng 6 bước rửa tay trước khi vào phòng ăn, khi trẻ rửa tay cô vừa hướng dẫn vừa giải thích cho trẻ nguyên nhân và tác hại khi không giữ sạch cơ thể cũng như chân tay khi vào ăn cơm.
+ Trong giờ ăn tập cho trẻ ăn không được nói chuyện, không vứt đồ ăn xuống dưới đất, không làm rơi vãi cơm hoặc múc cơm sang cho bạn bên cạnh. trước khi ăn cơm phải biết mời người lớn cũng như anh chị và bạn bè.
+ Sau khi ăn cơm xong thì giúp cô cất ghế vào đúng nơi quy định cho gọn gàng. 
- Không chỉ lên kế hoạch hướng dẫn cho trẻ mà còn phải thường xuyên cho trẻ xem tranh ảnh, vì từ góc nhìn của trẻ về những hình ảnh xung quanh, trẻ không chỉ có thể nhìn vào để học hỏi, mà trẻ còn muốn khám phá giống theo hình ảnh của bức tranh đó.
+ Ví dụ: Trong lớp cô có treo 1 bức tranh về cách hướng dẫn rủa mặt theo 4 bước, trẻ tò mò thì trẻ sẽ hỏi lại cô, cô sẽ hướng dẫn từng thao tác giống như trong bức tranh và cho trẻ thực hành.
* Biện pháp 2: Biện pháp cung cấp đầy đủ vật chất trang thiết bị và phương tiện cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh:
- Muốn thực hiện được nội quy vệ sinh đúng quy định thì cần phải có đầy đủ cơ sở vật chất và phương tiện để trẻ thực hiện. 
- Nhà trường cung cấp đầy đủ đồ dùng, dụng cụ cá nhân cho trẻ, yêu cầu đồ dùng của trẻ đều phải có kí hiệu riêng để trẻ nhận biết và lấy đồ dùng đúng với cá nhân của mình.
+ Ví dụ: Ly hoặc khăn rửa mặt của mỗi trẻ đều có kí hiệu như nhau, khi uống nước hoặc lau mặt thì trẻ sẽ sử dụng đúng đồ dùng của mình mà không bị nhầm lẫn đồ dùng của nhau.
- Muốn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định thì nhà vệ sinh cần phải có những bồn vệ sinh cũng như bồn rửa tay rửa mặt đúng với tầm của trẻ.
+ Ví dụ: Cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay đúng quy trình theo đúng 6 bước cơ bản thì phải có đủ vòi nước sạch cho trẻ, có xà phòng rửa tay, giáo dục trẻ phải rữa tay bằng xà phòng thì trong nhà vệ sinh. Yêu cầu trẻ muốn đi vệ sinh phải xin phép cô và đi vệ sinh đúng nơi quy định.
- Cung cấp đầy đủ đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được trải nghiệm và thực hành, trẻ học qua những lý thuyết mà giáo viên hướng dẫn, thì với trẻ việc trẻ thực hành là điều tất yếu nhất, chính vì thế không những đồ dùng về vệ sinh cho trẻ mà còn đồ dùng cho trẻ được trực tiếp tiếp xúc qua những hành vi của mình, để từ đó cô sữa sai cho trẻ.
+ Ví dụ: Cô cho trẻ chơi ở các góc, mỗi góc có mỗi đồ dùng đồ chơi khác nhau, nhiều trẻ từ góc này mà qua góc kia tranh đồ chơi của bạn và lấy đồ chơi của bạn mang về góc chơi của mình, trong khi tranh giành đồ chơi trẻ sẽ có thể gây xô xát với nhau hoặc nói ra những câu chửi thề, chính những lúc này cô giáo có thể sửa sai cho trẻ và giáo dục trẻ, nếu muốn chơi những đồ chơi của bạn thì phải sang thỏa thuận nhẹ nhàng với bạn để hai bạn cùng nhau đổi vị trí và góc chơi cho nhau.
* Biện pháp 3: Biện pháp hướng dẫn ( làm mẫu) và làm gương cho trẻ noi theo đúng trình tự trong quá trình hình thành thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ .
- Cô giáo cần phải hướng dẫn cho trẻ biết những yêu cầu cần thiết của từng thói quen vệ sinh tốt và tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu. Vì khả năng tiếp thu của trẻ còn hạn chế, khả năng quan sát ghi nhớ có chủ đích đã hình thành nhưng chưa duy trì bền vững nên lời hướng dẫn của cô phải: rõ ràng, chính xác, dễ hiểu.
- Đối với những việc có thể làm mẫu được thì cô nên làm mẫu thực tế cho trẻ quan sát hoặc cô có thể tập trước cho 1 trẻ thành thạo động tác rồi làm mẫu cho các bạn khác.
+ Ví dụ: Cô cho trẻ đi rửa tay thì cô phải thực hiện thao tác rửa tay theo 6 bước, khi rửa thì vừa làm vừa nói các bước rửa tay và yêu cầu trẻ làm theo.
- Cô nhắc nhở các cháu làm thường xuyên vì muốn hình thành một thói quen nào đó ngoài việc cho trẻ hiểu được ý nghĩa, có kỹ năng cần phải cho trẻ thực hiện thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ và hành động sẽ trở thành thói quen khi nhu cầu xuất phát từ bên trong của đứa trẻ
+ Ví dụ: Trẻ cảm thấy xấu hổ khi phải mặc quần áo bẩn đến trường.
- Các cháu ở lớp mẫu giáo bán trú có cả một thời gian dài ở lớp, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi đồ vật cảnh trí của lớp làm cho lớp học có không khí vui tươi, đầm ấm dễ chịu, gần gủi yêu thương. Tất cả những điều này để lại dấu ấn và ảnh hưởng rất lớn đến trẻ sau này. Dần dần hình thành cho trẻ thói quen xuất phát từ ý thức bên trong như: trẻ không nỡ đi dép vào lớp khi cô vừ lau xong sàn nhà, không làm lộn xộn tủ đồ khi cô vừa sắp xếp ngăn nắp. Nếu hằng ngày cô thực hiện nghiên túc thời gian biểu thì cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ hình thành thói quen tốt.
- Sự gương mẫu của mọi người xung quanh đặc biệt là người mẹ và cô giáo là 2 người ở vị trí trung tâm vì tiếp xúc với trẻ nhiều nhất, với bản chất của trẻ là thích bắt chước, thích làm người lớn nên trẻ sẽ học theo những cái đúng, đều tôt, Tất nhiên là cả những hành động không đúng và xấu xa. Nên là những người lớn xung quanh trẻ đạc biệt là mẹ và cô giáo cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triêt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo
* Biện pháp 4: Biện pháp rèn luyện kỹ năng các thao tác thực hành cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày ( mọi lúc mọi nơi)
* Ngoài những thói quen của bản thân thì cô cần rèn cho trẻ có những kỹ năng về thói quen cơ bản sau:
- Trẻ tự rửa mặt, đánh răng sau khi ngủ dậy, rửa tay sau khi đi vệ sinh và trước khi vào bữa ăn
Ví dụ: Khi trẻ đi vệ sinh xong, cô hướng dẫn trẻ rửa tay, trong những tiết học hoặc hoạt động ngoài trời cô trò chuyện:
 + “ Trước khi đi ngủ thì chúng ta cần phải làm gì để cho răng miệng sạch nhỉ?” 
 + “Vậy buổi sáng thức dậy chúng ta phải làm gì rồi mới ăn sáng để đến trường”
 - Giáo viên lặp đi lặp lại nhiều lần nhắc nhở trẻ và thực hiện ngay tại lớp những nhu cầu mà trẻ cần đến như: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. 
- Có ý thức giữ vệ nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học cũng như nơi công cộng,biết sử dụng nước sạch, tiết kiệm nhiên vật liệu.
- Trẻ tự biết tự mặc quần áo, yêu cầu người lớn phải măt cho mình trang phục sạch sẽ gọn gàng.
- Biết giúp cô gấp, trải nệm, biết cất giọn đồ chơi cùng cô và các bạn sau khi đã hết giờ chơi hoặc xếp lại giá đồ chơi ngăn nắp trong giờ hoạt động chiều.
- Biết đội mũ khi ra trời nắng, mặc áo mưa khi đi trời mưa. Mùa lạnh thì mặc áo ấm..
* Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc những quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh, các kỹ năng cần rèn cho trẻ:
- Biết giúp cô lau bàn sau khi ăn xong,biết giúp cô phơi khăn, nhặc rác rơi vãi trên sàn nhà
- Biết lấy tay che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi.
- Cô hướng dẫn cho trẻ biết cách chào hỏi cô khi đến lớp và chào mẹ để mẹ ra về, hướng dẫn trẻ bỏ dép lên giá dép, móc mủ lên giá, mang dép đúng chân của mình và biết chào hỏi các thầy cô giáo trong nhà trường.
+ Ví dụ: Khi đón trẻ cô nhắc trẻ chào cô, chào mẹ, khi có khách đến lớp cô mời lớp đứng dậy chào bất kì cô nào vào lớp.
- Trong giờ ăn: Dạy trẻ rữa tay sạch trước khi ăn, đánh răng sau khi ăn song để đi ngủ, mời người lớn trước khi ăn, cầm thìa bằng tay phải, ăn phải nhai từ tốn, không nói chuyện phun cơm mất vệ sinh chung, không ngậm cơm, nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa riêng
 + Ví dụ: Khi chia cơm cho trẻ xong cô nói “ Lớp chúng mình cùng mời các cô, các sơr ăn cơm”. Khi trẻ làm rơi cơm ra ngoài cô đến nhắc nhở và yêu cầu trẻ nhặc cơm bỏ vào đĩa riêng
 - Khi xếp hàng đi vệ sinh thì phải biết tuân thủ quy tắc bạn nào đến trước thì đi trước bạn nào đến sau thì đi sau không chen lấn nhau.
+ Ví dụ: khi trẻ đi vệ sinh cô đi theo hướng dẫn và nói cho trẻ biết “ bạn nào đứng đầu thì đi vào nhà vệ sinh trước đến bạn tiếp theo đi từ từ không chen lấn nhau làm bạn ngã.
- Với bạn bè thì nhường nhịn bạn khi chơi cùng nhau không đánh nhau cãi vả, bắt nạt bạn nhỏ hơn yếu đuối
+ Ví dụ : khi trẻ tham gia chơi hoạt động góc cô đến góc chơi gợi ý cho trẻ thỏa thuận chọn vai chơi mà mình thích nếu 2- 3 bạn cùng thích vào vai tài xế thì các con phải chơi theo thứ tự bạn này chơi xong đến bạn khi không cãi nhau, nếu bạn nào tranh dành đồ chơi thì cô sẽ không thưởng hoa bé ngoan cuối tuần
- Với thiên nhiên môi trường: Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa, ngắt lá, bẻ cành của cây hoa ở trường, chăm nhổ cỏ, tưới hoa
+ Ví dụ: Khi cô cho trẻ cùng tưới hoa với cô vào buổi sáng cô trò chuyện “ đố các bạn cô tưới cây, tưới hoa để làm gì??( để cây ra hoa, cây cho bóng mát) vậy khi cây ra hoa chúng ta có hái hoa không( dạ ! không hái ), Vậy khi ra chơi chúng ta có bẻ cành cây xanh trong vườn không? Vì sao?( Không nên, vì cây cho ta bóng mát)
- Trong hoạt động góc: Dạy trẻ biết rữa chén, dọn dẹp nhà cửa ở trò chơi gia đình, mời chào khách niềm nở với khách đến gian hàng mua đồ.
+ Ví dụ: Cô đến góc gia đình hỏi trẻ “gia đình mình ăn cơm chưa vậy ? ăn xong rồi thì cần phải làm gì để có chén bát sạch cho buổi chiều nhỉ? Mẹ hãy rửa chén và úp chén cho ráo nước đi nào!”
- Trong giờ tạo hình: Dạy trẻ ngồi đúng vị trí, đúng tư thế, không gây ồn ào, Sắp xếp lại hộp bút màu võ tạo hình cho ngăn nắp vào góc học tập
- Giờ trả trẻ: Cô trao đổi với phụ huynh về tình hình trẻ được rèn thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ ở nhà.
* Biện pháp 5: Biện pháp lồng ghép thơ ca, câu chuyện, bài hát, trò chơi để giáo dục thói quen vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
- Do đặc điểm của trẻ chóng nhớ nhưng rất mau quên, bên cạnh đó còn phải hình thành cho trẻ nhớ lâu và nhớ chính xác. Do vậy cần đỏi hỏi cô giáo không những phải thực hiện đầy đủ, đúng quy định mà con biết kết hợp dạy trẻ trong các hoạt động khác.
+ Ví dụ: Khi trẻ vui chơi và nghịch bẩn, giờ ăn đến rồi, tay sẽ không còn sạch nữa, vi khuẩn rất nhiều ở tay, nên phải làm gì để tay và cơ thể luôn được sạch sẽ và được mọi người yêu quý, ăn cơm sẽ có cảm giác ngon hơn thì trẻ được cô giáo cho đọc bài thơ “ bé ơi nhớ nhé” hoặc câu chuyện nói về cách hành xử văn minh của trẻ nhỏ, từ đó giáo dục trẻ biết cách cư xử đúng mực, biết lễ phép, ngoan ngoãn để những người xung quanh yêu thương và khen ngợi.
- Thông qua những trò chơi từ vận động đến dân gian, lồng ghép giáo dục trẻ biết cách cư xử về hành vi của bản thân đối với bạn bè và những người xung quanh.
+ Ví dụ: Trò chơi con muỗi, con muỗi bay vo ve, muỗi chít cái miệng hay nói chuyện, chít cái tay hay đánh bạn, chít cái chân hay la cà khi cho trẻ chơi xong kết hợp giáo dục về những hành vi không tốt của bản thân hoặc của bạn bè và hướng trẻ đến những hành vi văn minh lịch sự hơn.
* Biện pháp 6: Biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với phụ huynh.
Muốn giáo dục trẻ và hướng trẻ đi đúng theo phương hướng và mục đích của đề tài đặt ra thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục thói quen vệ sinh và hành vi văn minh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên phải thông báo, yêu cầu, biện pháp giáo dục cho phụ huynh biết, yêu cầu sự giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ, giáo viên phải làm tốt công tác tuyên truyền để các bậc phụ huynh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giữ vệ sinh cá nhân cũng như rèn cho trẻ những đức tính tốt, hành vi cư xử cũng như ứng xử thân thiện, nhẹ nhàng, lẽ phép.
 + Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về tình hình của cháu Kđôna về việc cháu không biết đi vệ sinh đúng nơi quy định, cháu đau bụng không biết xin phép cô để ra ngồi bô đi vệ sinh, cháu còn vệ sinh ra quần, nên cô giáo là người trực tiếp trao đổi với phụ huynh về cách hướng dẫn cho trẻ khi buồn đi vệ sinh phải xin phép người lớn và ra bô đi vệ sinh, khi đi vệ sinh xong hướng dẫn cho trẻ cần giáy và lau chùi sạch sẽ, sau khi lau chùi xong thì trẻ sẽ rửa tay với xà bông ở vòi nước sạch để giữ vệ sinh cá nhân luôn được sạch sẽ. Cô theo giỏi sự biểu hiện của cháu ở lớp thì thấy cháu đã thực hiện tốt và trao đổi lại với phụ huynh để tiếp tục phát huy cho cháu.
c. Mối liên hệ giữa các giải pháp, biện pháp:
Để rèn cho trẻ thói quen vệ sinh và hành vi văn minh thì cần phối hợp nhiều giải pháp, biện pháp với nhau. Những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ khăng khít và hỗ trợ cho nhau, có sự lôgic, xâu chuỗi với nhau. Biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh và hành vi văn minh trong các hoạt động hằng ngày trên lớp của trẻ, biện pháp phối hợp giữa gia đình và nhà trường, Biện pháp làm gương cho trể noi theo sẽ hỗ trợ cho các biện pháp khác. Các biện pháp trên hỗ trợ qua lại chặt chẽ với nhau đã tạo nên những giải pháp tốt nhằm làm cho trẻ có môi trường rèn thói quen vệ sinh hành vi văn minh cho trẻ đạt hiệu quả cao hơn. Bởi lẽ khi thực hiện các biện pháp trên có nghĩa là phải thực hiện xuyên suốt vào hệ thống hoạt động của 1 ngày của trẻ nên trẻ luôn luôn được sống trong môi trường có sự giáo dục đinh hướng của giáo viên. Nên các biện pháp luôn 

Tài liệu đính kèm:

  • docSÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2018 Của HÂN.doc