Một số biện pháp giáo dục lồng ghép, tăng cường Tiếng việt trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi tại lớp lá 1 trường MN Cư Pang

Một số biện pháp giáo dục lồng ghép, tăng cường Tiếng việt trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi tại lớp lá 1 trường MN Cư Pang

Phối hợp với cộng đồng và cha mẹ của trẻ

Lập kế hoạch tuyên truyền, phối hợp với cộng đồng và cha mẹ trẻ trong công tác giáo dục trẻ cách chăm sóc, giáo dục trẻ đến với cha mẹ trẻ từ đó giúp giáo viên có định hướng rõ ràng trong việc nuôi dạy trẻ hàng ngày, tạo được mối liên hệ phối hợp giữa giáo viên và cộng đồng từ đó việc chăm sóc giáo dục trẻ và công tác duy trì sỹ số được diễn ra thuận lợi hơn.

Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo không nhiều, nhưng nếu chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có thể gặp phụ huynh, trao đổi và phân tích cho phụ huynh của các cháu hiểu được những thuận lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt, phối hợp với phụ huynh cùng làm đồ dùng tự để tăng cường tiếng Việt

 

doc 27 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 3303Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số biện pháp giáo dục lồng ghép, tăng cường Tiếng việt trẻ dân tộc thiểu số 5 - 6 tuổi tại lớp lá 1 trường MN Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở lớp trẻ mới dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu nhau dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng Việt có thể học tập và sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
Việc cho trẻ làm quen tiếng Việt hiện nay chưa mang lại kết quả như mong muốn, những biện pháp đã sử dụng trước đây như tạo môi trường, tích hợp lồng ghép, thông qua hoạt động vui chơi chưa đạt hiệu quả cao cụ thể như: vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát trẻ 26 trẻ lớp lá 1 trường MN Cư Pang đạt kết quả như sau:
TỔNG SỐ TRẺ
 ĐƯỢC KHẢO SÁT
Trẻ phát âm chuẩn
tiếng Việt
Trẻ phát âm chưa chuẩn
tiếng Việt
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
26 trẻ
5/26
19 %
21/26
81%
Nguyên nhân khách quan:
Ưu điểm: Được sự quan tâm sâu sắc của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, hội cha mẹ học sinh và đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo của bộ phận chuyên môn Phòng giáo dục và đào tạo cũng như: Lãnh đạo nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, các chị em bạn bè đồng nghiệp luôn sẵn sàng hỗ trợ giúp đỡ tôi hoàn thành tốt công tác.
Được sự đầu tư của công ty DakMan trường có cơ sở vật chất đầy đủ. Có phòng học rộng rãi thoáng mát, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ đầy đủ
Hạn chế: Trường Mầm non Cư Pang là một trường quốc lập mới được thành lập từ tháng 6/2014, đóng tại địa bàn buôn Knul Xã Eabông thuộc vùng đặc biệt khó khăn của huyện Krông Ana. Buôn Knul với 99% là dân tộc Êđê trình độ dân trí thấp, chưa đảm bảo được mức sống cho người dân. Đa số người dân chưa có nhận thức đúng mức về việc cho trẻ đến trường và tầm quan trọng của việc cung cấp vốn tiếng Việt. Do đó chưa có sự quan tâm đến con em mình, sự phối hợp với nhà trường còn hạn chế. Hầu hết các cháu chưa đến trường, các cháu còn rất bỡ ngỡ với tất cả các hoạt động, đặt biệt là tiếng Việt
Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số trước khi tới trường đều sống hoàn toàn trong môi trường tiếng mẹ đẻ, không có vốn tiếng Việt ban đầu nên việc giáo dục lồng ghép tăng cường tiếng Việt còn khó khăn
Nguyên nhân chủ quan: 
Ưu điểm: Là một giáo viên trẻ đầy nhiệt huyết thường xuyên học hỏi, tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn và các đợt sinh hoạt chuyên đề, hội thi đồ dùng, đồ chơi để học tập và rút kinh nghiệm.
Một số cha mẹ trẻ nhiệt tình, luôn sẵng lòng giúp đỡ phối hợp với giáo viên chủ nhiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Hạn chế: 
Là một giáo viên người kinh đã tham gia học tiếng Ê đê nhưng nhiều lúc cũng không nghe hiểu trẻ nói gì, nên việc giao tiếp với trẻ cũng gặp khó khăn.
Các bậc cha mẹ học sinh chưa xác định được tầm quan trọng của việc cho con em đến trường Mầm non theo đúng độ tuổi, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc cho trẻ đến lớp. Kiến thức về chăm sóc cũng như kỹ năng nuôi dạy con của phụ huynh còn hạn chế. 
Cha mẹ trẻ thường cho trẻ lên rẫy cùng, không cho trẻ đến lớp theo đúng độ tuổi, Các hộ gia đình cách xa nhau làm hạn chế quá trình giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh, bên cạnh đó trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, chưa tự tin vào bản thân.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận cho thấy có mối quan hệ giữa các yếu tố kiến thức, thái độ và thực hành để hình thành hành vi, và thói quen. Mỗi giải pháp đưa ra nhằm tác động vào từng yếu tố theo hướng tích cực như: Nâng cao sự hiểu biết, nhận thức của trẻ về thái độ, làm cho trẻ yêu thích, hứng thú với việc làm quen tiếng Việt từ đó trẻ tích cực hình thành thói quen làm quen tiếng Việt thường xuyên và đúng cách.
Trước tình hình thực tế ở lớp tôi, tôi nghĩ việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một việc hết sức quan trọng cần thiết và cấp bách
Hình thành ở trẻ các kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt rõ ràng, mạch lạc.
Hình thành cho trẻ kĩ năng tự nhận thức về bản thân, kĩ năng biết hợp tác phối hợp với bạn, kĩ năng thực hiện theo chỉ dẫn, yêu cầu của người lớn, kĩ năng tự bảo vệ bản thân và mọi người xung quanh.
Phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trẻ mạnh dạn, tự tin vào bản thân và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: 
Để góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non. Tôi đã tuyên truyền phụ huynh tích cực hợp tác với giáo viên, cùng thống nhất cách dạy tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi, gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không gò bó Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ.
Biện pháp 1: Nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, tìm hiểu nghiên cứu các phương pháp dạy lấy trẻ làm trung tâm 
Bản thân là tổ trưởng tổ khối lá được tham các chuyên đề tăng cường tiếng Việt, Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, phát triển bộ chuẩn trẻ 5 tuổi do phòng giáo dục, cụm chuyên môn tổ chức, trực tiếp tham gia giảng dạy các chuyên đề lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số, được trực tiếp các cụm trưởng, giáo viên các trường góp ý xây dựng thêm các biện pháp lồng ghép tăng cường tiếng Việt nên bản thân có một số kinh nghệm sau:
 Hệ thống câu hỏi giúp trẻ phát huy được tính tích cực sáng tạo, giúp trẻ nắm được các từ tiếng Việt đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Hệ thống câu hỏi bài tập cô đặt ra câu hỏi dựa trên tri giác và trí nhớ tái tạo của trẻ nhằm ghi nhận những kiến thức của đối tượng yêu cầu trẻ miêu tả những kiến thức mà trẻ vừa quan sát hay nhắc lại nhiệm vụ của cô giáo 
Câu hỏi sáng tạo có nhận thức nhằm giúp trẻ sử dụng những kiến thức đã nắm 
Khi sử dụng câu hỏi giáo viên cần chú ý đặt câu hỏi phải ngắn gọn cụ thể đủ ý, nội dung câu hỏi phải vừa sức trẻ, các khái niệm trong câu hỏi phải quen thuộc với trẻ nên đặt nhiều dạng câu hỏi cho một vấn đề các câu hỏi phải có hệ thống, phải kích thích sự suy nghĩ của giáo viên, phải đặt câu hỏi mang tính đa dạng để mở rộng vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ hiểu và sử dụng nhiều cách đặt câu hỏi để cho trẻ ứng dụng vào các tìn huống khác nhau của cuộc sống .
Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý và ngôn ngữ của trẻ, Lập kế hoạch cho hoạt động lồng ghép 
Ngay từ đầu năm được phân công đứng lớp lá 1 tôi đã bắt đầu nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí cũng như ngôn ngữ của tất cả trẻ trong lớp
Trẻ nói được nhờ nghe người lớn nói và bắt chước. Phát triển vốn từ cho trẻ là việc tổ chức có kế hoạch, có khoa học nhằm cung cấp, làm giàu vốn từ, nâng cao khả năng hiểu nghĩa của từ, củng cố và tích cực hoá vốn từ cho trẻ, giúp trẻ biết vận dụng phù hợp vốn từ đó trong hoạt động giao tiếp thì trước tiên người giáo viên phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý trẻ từ đó lâp kế hoạch giáo dục đặc biệt là tiếng Việt, chính vậy ngay từ đầu năm học nhận sự phân công ở lớp lá 1, đầu tiên tôi tìm hiểu về đặc điểm cử từng trẻ qua khảo sát, qua trò chuyện với trẻ, đến với cha mẹ trẻ tìm hiểu nơi trẻ sống chú ý đến những trẻ nối ngọng, phát âm chưa chuẩn.
Ví dụ: Một số trẻ nhút nhát nhận biết tiếng việt chậm, lười đi học, từ đó bắt tay vào việc lên kế hoạch năm, chủ đề, tuần và lựa chọn các nội dung luyện tập cho trẻ tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động trong một ngày.
 Lập kế họach 35 tuần chú trọng phát triển ngôn ngữ soáy sâu lồng ghép tăng cường tiếng Việt, theo chương trình khung, bộ chuẩn, các tiêu chí xây dựng lấy trẻ làm trung tâm, Bdtx môdun 3.
Ví dụ: Tháng 9: Với chủ đề trường Mầm non tuần Ngày hội bé đến trường tôi lên kế hoạch tăng cường tiếng Việt cho trẻ từ “ Chào cô’” vào các ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư và ôn lại các ngày sau.
Biện pháp 3: Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, trang trí lớp học lôi cuốn hấp dẫn trẻ.
Đây là nguyên tắc dạy học quan trọng để hình thành biểu, hình ảnh ban đầu cho trẻ mầm non. Học bằng chơi chơi mà học, tăng cường tiếng Việt không chỉ dừng lại ở hoạt động cho trẻ làm quen với các hoạt động mà còn được tắm trong môi trường tiếng Việt, cho trẻ vận dụng những kiến thức kĩ năng đã có giúp trẻ nhớ lâu hơn về các hình ảnh, với tiêu chí mỗi ngày trẻ đến trường là một ngày vui chúng tôi đã tham mưa, vận động phụ huynh tạo môi trường cho trẻ từ ngoài vào, bắt đầu đến trường đã thấy vui và hứng thú bằng các hình ảnh có tiếng Việt ngay từ cổng trường.
Hình ảnh trẻ được vui chơi ngoài làm quen tiếng Việt qua từ trong tranh
Với trẻ 5-6 tuổi cần phải tăng cường tổ chức loại tiết học này ở ngoài trời. Ngoài ra có thể phối hợp tổ chức tiết học vừa ở trong phòng học vừa ở ngoài trời ở những nơi thoáng mát và thuận lợi cho việc tổ chức cho trẻ hoạt động với đối tượng và đàm thoại vì vậy xây dựng môi trường cho trẻ hoạt động lồng ghép tăng cường tiếng Việt ở ngoài trời với Tiêu chí 4 ( Xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm) Có các góc chơi phù hợp, chỉ số 8: phù hợp, an toàn, thân thiện với trẻ, chỉ số 9: Đa dạng đồ dùng phù hợp với trẻ 
Ví dụ: Làm các gian hàng từ tre, nứa, bẹ dừa để trẻ bán hàng ngoài trời đồng thời lồng ghép môi trường tiếng Việt như từ “ Gian hàng” “rau củ quả” Trong giang hàn nước giải khát tăng cường từ: “Cửa hàng tạp hóa” “ sữa tươi”..... với nhiều đồ dùng đồ chơi đa dạng trong giang hàng.
Hình ảnh trẻ được vui chơi ngoài sân và làm quen tiếng Việt 
Hình ảnh Trẻ chơi với nước, cát, chăm sóc cây có tiếng Việt
Để phát âm tốt tiếng Việt trước tiên tôi cho trẻ phát âm đúng các chữ cái thường xuyên qua các góc học tập, ở những góc chơi được trang trí hấp dẫn như Góc ong tìm chữ và ghép từ tiếng Việt để phát âm tốt và nhớ lâu hơn
Hình ảnh các góc chơi được trang trí đề trẻ phát triển tiếng Việt
Tạo môi trường lấy trẻ làm trung tâm rèn cho trẻ kỹ năng ghép hình, lắp ráp, tô màu, vẽ dán, sắp xếp theo quy tắc, nhận biết số lượng, biểu tượng, hình ảnh phù hợp với chủ đề tạo môi trường phù hợp sử dụng những sản phẩm của trẻ để tạo cho trẻ tự trang trí.
Ví dụ: ở chủ đề hiện tượng thiên nhiên, trang trí góc chủ đề có đám mây, cầu vòng trong môi trường tiếng Việt vừa có hình ảnh vừa có từ tiếng Việt “Đám mây” “Cầu vòng”.... để trẻ thường xuyên có cơ hội phát âm tiếng Việt.
Hình ảnh Môi trường tiếng Việt trong lớp học
 Ở chủ đề quê hương đất nước với bảng đồ nước Việt Nam tôi cho trẻ làm quen từ “bản đồ” trẻ được lắp ghép các vùng miền lại với nhau trên các vùng miền đó có các từ chỉ địa danh trẻ có thể làm quen như từ: “Hà nội” “Thừa thiên Huế” “Hồ Chí Minh” “Cà Mau” và khắc sâu hơn
Hình ảnh: Bản đồ mãng rời để lắp ghép có tiếng Việt
Biện pháp 4: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động
Trong tất cả các giờ học tôi đều có hình ảnh đập vào mắt trẻ trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt
Tổ chức các hoạt động cho trẻ bằng phương pháp lấy trẻ làm trung tâm, gợi mở, khơi gợi để trẻ tự suy nghỉ và trẻ lời
Hoạt động làm quen với toán:	
Chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1, kiến thức sơ đẳng nhất là trẻ phải biết đếm, thêm bớt, chia nhóm, tạo nhóm trong phạm vi 10, trẻ nhận biết các hình, các khối, biết thực hiện các thao tác đo...Để trẻ làm được điều đó trước hết người giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài điều này rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú, lôi cuốn hơn khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ và đặc biệt là được hoạt động với những đồ dùng đó.
Ví dụ: Ở chủ đề phương tiện giao thông, làm quen chữ số 10, tôi cho hình ảnh 10 chiếc thuyền, Cho trẻ đọc chuẩn nhất trả lời và phát âm trước và các bạn dân tộc thiểu sốphát âm chưa chuẩn phát âm lại số 10
Hoạt động làm quen văn học: 
 Ở trẻ mầm non sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt động học tập bên cạnh đó vốn tiếng Việt của trẻ còn hạn chế nên làm quan văn học cho trẻ dân tộc thiểu số là một khó khăn không nhỏ. Bản thân luôn học hỏi tập luyện lời nói, câu văn trước khi lên lớp 
Đối với hoạt động dạy thơ cô luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng đọc thơ diễn cảm, cử chỉ điệu bộ, tiến hành cho trẻ đọc thơ bằng nhiều hình thức (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân, đọc nối đuôi) cô chú ý sữa sai cho trẻ và đồng thời khuyến khích, tuyên dương khi trẻ đọc đúng.
Ví dụ: Bài thơ có tên là gì? Cả lớp phát âm, tổ, cá nhân nhắc lại từ 
Với hoạt động làm quen văn học môn kể chuyện cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện. Để cháu nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng nhiều hình thức như qua tranh minh họa, mô hình hoặc rối khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành động của từng nhân vật một cách rõ ràng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân vật hung dữ, cho trẻ hóa thân thành các nhân vật qua trò chơi đóng kịch.
Ví dụ: Trẻ nhập vai các con vật trong câu chuyện chú Dê Đen đóng kịch rèn cách phát âm tiếng Việt với các từ: “ dê kia mày đi đâu”, “tôi đi tìm lá non để ăn”...
Với những hình thức như trên vốn từ tiếng Việt của trẻ đã tăng lên một cách rõ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy cô giáo tiếp tục tìm tòi các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ tiếng Việt.
Hoạt động khám phá khoa học
Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những nghệ thuật để lên lớp, sử dụng các phương pháp quan sát và đàm thoại qua các hình ảnh, mô hình mới lạ hấp dẫn khắt sâu hơn hình ảnh và ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy chúng ta cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ. Có thể biến tiết học thành một cuộc thi tài, một chuyến tham quan hay một cuộc dạo chơi thú vị.
 Môn khám phá khoa học giúp trẻ phát triển nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng của môn học này để dạy trẻ.
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật:
 Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ trả lời “Asâo” (tiếng Việt có nghĩa là con chó) Trước tình huống đó tôi nói với các cháu: “cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con và các con nói tiếng tiếng Việt các con có đồng ý không?” và tiết học của chúng tôi đã trở thành một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng Việt mỗi khi cô đưa tranh ra.
Tôi hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sửa sai và hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn chế được lỗi mất dấu khi phát âm.
- Với hình thức “Thi tài” hay “Đố vui có thưởng” giữa cô và trẻ thì trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô
 Ví dụ: Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi: Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả lời: Thưa cô con chó là động vật sống trong nhàTrẻ trẻ lời Con chó, chọn tranh và các trẻ ở dưới nhắc lại kiểm tra xem bạn phát âm đúng chưa
Trong chủ đề: Thực vật, Đề tài: Trò chuyện về một số loại quả. Cô cho trẻ tham quan khu vườn trái cây, lồng ghép, tăng cường bằng các câu hỏi “ đây là cây gì? Trẻ trả lời và cô khắt sâu bằng các tình hống như chưa nghe để trẻ nói lại nhiều lần cô khen trẻ tặng quà cho trẻ, trẻ chưa trả lời được thì mời bạn khác trả lời giúp, và cho trẻ nhắc lại, nếu trẻ vẫn không trả lời được thì cô có thể gợi ý và cho trẻ nhắc lại từ cần tăng cường như : Quả đu đủ, quả mậm....
Hình ảnh có tiếng Việt chọn và phát âm
Hoạt động âm nhạc:
Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó mà trong giờ hoạt động âm nhạc cô giáo đã dạy cho các cháu hát những bài hát theo chủ đề cũng như những bài hát trong chương trình mầm non. Tổ chức các hoạt động lễ hội sôi nỗi hấp dẫn như: Lễ hội đêm trăng rằm, Mừng ngày nhà giáo Việt Nam, Ngày của mẹ, Tài năng nhí....... tập cho các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu về bản thân, sở thích và biểu diễn cho các bạn xem, cứ lần lượt như vậy và tất cả các cháu đều được tham gia. Bước đầu các cháu chỉ thuộc lời của bài hát và tiếp đến các cháu đã dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát, hỏi trẻ về tên bài hát, nội dung bài hát điều này giúp các cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng Việt tốt.
Hoạt động làm quen chữ cái:
Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói.
Cô giáo tạo tình huống nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô giới thiệu chữ cái, phân tích cấu tạo của chữ và cho trẻ phát âm chữ cái đó. Cô cho trẻ quan sát và nắm được đặc điểm của chữ cái và để khắc sâu hơn về đặc điểm, cấu tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, cô giáo thiết kế các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm được các chữ cái, không những vậy mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn.
Ví dụ: Trò chơi : Ô cửa bí mật, ghép các nét thành con đường có chữ cái theo yêu cầu, Chiếc nón kỳ diệu, gạch chân chữ cái theo yêu cầu, bánh xe chữ cái cho trẻ phát âm chữ cái đó nếu trẻ phát âm chính xác cô tuyên dương và cho cả lớp cùng phát âm theo, nếu trẻ phát âm chưa chính xác cô có thể giúp trẻ bằng cách cô phát âm và cho trẻ phát âm lại.
Hình ảnh trò chơi ghép các nét thành con đường và phát âm
Trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt còn hạn chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình chuẩn bị ngôn ngữ tiếng Việt, kiến thức, kĩ năng trẻ giáo viên cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải mái trong mọi hoạt động, không áp đặt trẻ, cho trẻ được tự do thảo luận hay nói những suy nghĩ của trẻ.
Biên pháp 5: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi
Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ thì việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết.
Giờ đón, trả trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, nhắc nhở trẻ lồng ghép tiếng Việt “Chào mẹ”, “Chào cô” cất đồ dùng đúng nơi qui định, chải tóc, lau mặt, sửa sang quần áo cho trẻ, trò chuyện thân mật, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ bằng một số câu giờ chơi tự do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp xúc với tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với trẻ. Cho trẻ hát hoặc đọc các bài thơ có trong chương trìnhkhông những vậy tôi luôn tìm mọi cách để thay đổi hình thức giúp trẻ không thấy nhàm chán khi tham gia các hoạt động. Ví dụ: Chủ đề bản thân lên kế hoạch dạy tăng cường tiếng Việt từ “ăn cơm” “Canh cải” “ thịt xào”.ở giờ ăn trưa: tạo tình huống hỏi trẻ con đang ăn gì trẻ trả lời “ăn cơm” “Canh cải” “ thịt xào”
Ở lớplá 1 với số lượng trẻ dân tộc thiểu số chiếm 12/26 tỉ lệ 46% nên Tôi tăng cường tiếng Việt cho trẻ vào buổi chiều 15 phút với hình thức học bằng chơi chơi mà học qua các trò chơi như: Ô cửa bí mật, chiếc túi kỳ lại, chiếc nón kỳ diệu... Giờ hoạt động chiều tôi chuẩn bị sẵn các đồ dùng đồ chơi tự tạo, Các trò chơi hấp dẫn cho trẻ, nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động “Tăng cường tiếng Việt” hứng thú hơn, trẻ tham gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau để phát âm chuẩn tiếng Việt.
Ví dụ: Hai đội thi ghép các chữ cái thành từ tiếng Việt theo yêu cầu
Hình ảnh trò chơi tăng cường tiếng Việt vào buổi chiều
Giờ ra chơi, dạo chơi cũng tạo tình huống cho trẻ phát âm chuẩn tiếng Việt 
Lồng ghép vào các lễ hội :
VD: Lễ tri ân ngày nhà giáo Việt nam Làm thiệp tặng cô tăng cường tạo từ “Thiệp chúc mừng” “Ơn thầy” “Tri ân”
Hình ảnh là thiệp các ngày lễ có tiếng Việt
Lễ hội tết nguyên đán: chúc mừng năm mới làm thiệp mừng xuân tăn

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN 17-18 ( THUY).doc