Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đúng luật chính tả một số âm, vần cho học sinh lớp 1

Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đúng luật chính tả một số âm, vần cho học sinh lớp 1

Chính trong phần dạy âm, từ bài 9 (SGKTV1) trở đi các em được học bài âm c, nhưng đến bài 20 mới học âm k, bài 24 học âm q (quy). Tuy cấu trúc chương trình vậy, nhưng trong quá trình học, một số em năng khiếu đã viết được tiếng có âm đầu là k q Thường thì sau mỗi bài học, tôi đều chốt ý. Đây là điểm tựa giúp các em học đâu nhớ đó. VD: đến bài 9 (c ), khi tôi đọc yêu cầu viết bảng con từ có cá vì các em chưa học âm k nên viết tương đối đúng. Nhưng sau khi học âm k; âm q (quy), khi yêu cầu viết từ VD: kì cọ; qua đò, cũng đã nhiều em ngay chính lớp tôi dạy viết: cì cọ, coa đò. Nguyên nhân dẫn đến các em viết sai luật chính tả là do có thể các em đánh vần chưa đúng(VD: khi viết tiếng qua: vì các em đánh vần chưa đúng như: c- oa – coa – coa), cũng có thể các em chưa hiểu luật chính tả c/k/q. Khi các em mắc lỗi chính tả vậy, giáo viên cần uốn nắn cách đánh vần của qu (quờ) -> a -> qua, đơn giản cần giúp các em hiểu về cách đánh vần đúng để viết đúng vậy. giúp các em hiểu về luật chính tả âm đầu k. Ghi bảng k: e; ê; I (y) và hướng dẫn các em hiểu và học thuộc k (âm ca) chỉ ghép được với âm e; âm ê; âm i/ (y) .

 Và khi dạy TV1CGD, các em không được học cụ thể âm k (ca); q(quy), mà cả ba âm c; k; q đều được đọc chung là c (cờ). Nhưng lại có luật chính tả: Âm c (cờ_ đứng trước âm e, âm ê, âm i, được viết bằng con chữ k(ca). Âm c(cờ) đứng trước âm đệm được viết bằng con chữ q (quy). Trong tiếng Việt, có hai âm được gọi là âm đệm đó là âm o và âm u nếu âm o, âm u đứng trước âm chính. Nhưng nếu âm o, âm u đứng sau âm chính thì được gọi là âm cuối. Vì vậy khi viết c(cờ) đứng trước âm đệm của vần có âm đầu vần là o thì o được viết thành âm đệm u.VD: viết tiếng qua: Đánh vần cờ -> oa -> coa. Lúc này viết đúng sẽ là: q (cờ) -> oa-> qoa, (vì âm c(cờ) đứng trước vần có âm đệm là o nên phải viết là q(quy) và âm đệm o sẽ viết là âm đệm u vì khi viết q (quy) chỉ ghép được với âm đệm u).

 

doc 14 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 3800Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đúng luật chính tả một số âm, vần cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững.
- Tiếng Việt với học sinh lớp 1 bước đầu các em được học đọc, học viết từ nhận diện âm và chữ ghi âm (đọc) ghi nhớ để viết là việc làm vô cùng khó khăn vì tất cả đều là mới lạ với các em. Sau khi học âm và chữ ghi âm -> vần. Theo chương trình SGKTV1 hiện hành thì sang tuần 25 trở đi, các em mới làm quen phân môn tập đọc và phân môn chính tả (tập chép), chỉ có một vài bài nghe – viết	
3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp: 
- Một bài chính tả, yêu cầu đầu tiên là các em viết đúng văn bản, sau đó mới cần đẹp. Viết đúng chính tả, đúng nội dung văn bản sẽ giúp người đọc hiểu được nội dung vấn đề. Khi nghe viết chính tả, để giúp các em hiểu và nghe viết đúng, nhanh. Các em có điểm tựa để viết, biết vận dụng khi nghe viết hoặc dùng từ, đặt câu khi viết văn, hoặc viết một văn bản giúp người đọc hiểu đúng nội dung văn bản thì các em cần hiểu và ghi nhớ một số luật chính tả.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
	* Dạy chính tả, giáo viên cần phải phát âm chuẩn đặc biệt khi nghe viết.
	- Chính tả được viết dưới hai hình thức là: Tập chép và nghe viết. Vì các em mới chỉ làm quen âm (con chữ; chữ) mà các em chưa học cao để hiểu về từ thuần Việt hay Hán – Việt nên việc dạy để các em hiểu, vận dụng khi viết thật không đơn giản.
	Ở lớp 1 hầu như các em được trình bày bài chính tả dưới hình thức tập chép là nhiều, tuy nhiên vẫn có nghe viết. Bài chính tả nghe viết hầu như là những bài thơ ngắn học thuộc lòng. Mặc dù tập chép (nhìn văn bản và sao chép lại bằng chữ viết thường của mình), nhưng vẫn có những em viết sai (do nhầm lẫn âm đầu, vần hoặc vị trí thanh điệu). Ví dụ: (tập chép) bài: Trường em, có em nhìn và viết “ chường em”. Đậy là lỗi sai mà các em mắc phải (được gọi là lỗi sai do tiếng địa phương mà hầu hết ở những HS thuộc các tỉnh phía Bắc như: Hải Dương, Thái Bình, Hưng Yên). Tùy vào đối tượng học sinh thuộc vùng, miền mà giáo viên khắc phục lỗi chính tả chung của vùng đó. Khi dạy đến bài 18 âm ch, giáo viên cần hướng dẫn kí khi phát âm. Đến bài 26, các em được học âm tr. Lúc này giáo viên cần khắc sâu cho các em hiểu rõ âm đầu tr khác âm đầu ch khi phát âm bằng cách: giáo viên viết âm tr và chỉ vào đó, yêu cầu vài HS phát âm (có uốn nắn sửa sai nếu phát âm chưa đúng). Sau đó GV hướng dẫn các em phát âm đúng và lấy ngay miệng của mình (của giáo viên) làm đồ dùng trực quan như yêu cầu các em nhìn miệng cô, khi phát âm tr, đầu lưỡi hơi cong lên phía dưới chân răng hàm trên (vừa làm mẫu, vừa giải thích), (yêu cầu các em cùng làm theo), đẩy mạnh luồng hơi tạo sức bật nhanh để phát âm tr. Cho so sánh với âm ch để giúp HS đễ phân biệt sự khác nhau giữa âm tr/ ch. Với âm ch cũng làm mẫu nhưng đầu lưỡi thẳng đặt dưới chân răng hàm trên và phát âm luông hơi đi ra nhẹ hơn. Hướng dẫn HS phát âm tr/ ch (chỉ và yêu cầu phát âm nhanh).
	* Dạy luật chính tả âm gh/(ngh).
	Khi chưa hướng dẫn các em về luật chính tả âm gh/ngh thì hầu hết các em viết chưa đúng luật. VD: yêu cầu viết gồ ghề thì các em viết gồ gề hoặc ghồ ghề hoặc ghồ gề, cũng có em viết đúng từ gồ ghề nhưng chẳng may viết thì đúng tức là viết theo cảm tính chứ không theo luật. Sau khi tôi hướng dẫn các em về luật chính tả âm gh/ngh thì hầu hết các em dựa vào luật chính tả để viết. Để tránh các em quên, Tôi viết sẵn vào bảng phụ của lớp về luật chính tả âm gh/ (ngh)
* Âm g (gờ): đứng trước các âm e, ê, i được viết bằng âm gờ (kép - gh) và yêu cầu học sinh học thuộc ngay từ khi các em đang học phần âm ( bài 23 – tiếng Việt hiện hành). Cho đến khi sang phần học vần, tôi hướng dẫn thêm và các vần có âm e, ê, i đứng đầu vần được viết bằng âm gờ ( kép - gh). Ngoài 3 âm (e, ê, i) ra thì gờ (g) ghép được với các nguyên âm còn lại như a, o, ô, u, ư và các vần có những âm a, o, ô, ơ, u, ư, ă, â đứng đầu vần). Tương tự với âm ngờ (kép – ngh) cũng vậy nên bước đầu khi học phần âm, để kiểm tra phần viết bài của các em xem mức độ nhận biết của các em tới đâu, tôi thường xuyên cho các em chơi trò chơi”rung chuông vàng” yêu cầu viết từ do giáo viên đọc ngay sau khi học xong bài 23. Tôi chia mỗi bàn làm hai số chẵn – lẻ ( tôi quy định các em ngồi bên tay phải ngược chiều tôi là số 1, các em ngồi cùng bàn còn lại là số 2) theo dọc của dãy và lệnh viết. VD: số 1 viết từ ghẹ; số 2 viết từ gà gô. Kết hợp tôi sẽ hướng dẫn em nào viết xong từ của mình, viết từ của bạn. Như vậy cùng trong một khoảng thời gian, tôi dạy phân hóa được các em học sinh của lớp. Nếu em nào hiểu, nhớ luật chính tả thì các em viết đúng, nhanh (viết được hai từ), còn nếu em nào viết đúng nhưng chỉ viết được một từ của mình thôi thì động viên các em. Tuy nhiên cũng có nhiều em viết sai luật chính tả VD: gẹ; ghà gô  Khi gặp lỗi sai phổ biến như vậy, buộc giáo viên cần sửa lỗi chung cho các em và giúp các em hiểu về luật chính tả. Khi chia theo số chẵn, lẻ như vậy sẽ giúp các em phát huy tính độc lập suy nghĩ của các em, tránh trường hợp nhìn bài của nhau và phát huy hiệu quả được dạy phân hóa như yêu cầu tổ chức lớp học hiện nay.
Từ đậy giáo viên đã giúp các em ghi nhớ (có điểm tựa) về luật chính tả âm đầu gh (ngh) khi viết. Sau này đến khi dạy vần, tôi chỉ vào âm gh và lệnh: hãy đọc luật chính tả âm “gh” thì tất cả các em đã quen đọc: âm g (gờ) đứng trước âm e, âm ê, âm I và các vần có âm e, âm ê, âm I đứng đầu vần, được viết bằng âm gờ (kép – gh) hay với âm ngh cũng vậy.
	 e	 e	
* gh: 	ê * ngh	 ê 
	i i
	* Dạy luật chính tả âm c/k/q.
Chính trong phần dạy âm, từ bài 9 (SGKTV1) trở đi các em được học bài âm c, nhưng đến bài 20 mới học âm k, bài 24 học âm q (quy). Tuy cấu trúc chương trình vậy, nhưng trong quá trình học, một số em năng khiếu đã viết được tiếng có âm đầu là k q Thường thì sau mỗi bài học, tôi đều chốt ý. Đây là điểm tựa giúp các em học đâu nhớ đó. VD: đến bài 9 (c ), khi tôi đọc yêu cầu viết bảng con từ có cá vì các em chưa học âm k nên viết tương đối đúng. Nhưng sau khi học âm k; âm q (quy), khi yêu cầu viết từ VD: kì cọ; qua đò, cũng đã nhiều em ngay chính lớp tôi dạy viết: cì cọ, coa đò. Nguyên nhân dẫn đến các em viết sai luật chính tả là do có thể các em đánh vần chưa đúng(VD: khi viết tiếng qua: vì các em đánh vần chưa đúng như: c- oa – coa – coa), cũng có thể các em chưa hiểu luật chính tả c/k/q. Khi các em mắc lỗi chính tả vậy, giáo viên cần uốn nắn cách đánh vần của qu (quờ) -> a -> qua, đơn giản cần giúp các em hiểu về cách đánh vần đúng để viết đúng vậy. giúp các em hiểu về luật chính tả âm đầu k. Ghi bảng k: e; ê; I (y) và hướng dẫn các em hiểu và học thuộc k (âm ca) chỉ ghép được với âm e; âm ê; âm i/ (y) . 
	Và khi dạy TV1CGD, các em không được học cụ thể âm k (ca); q(quy), mà cả ba âm c; k; q đều được đọc chung là c (cờ). Nhưng lại có luật chính tả: Âm c (cờ_ đứng trước âm e, âm ê, âm i, được viết bằng con chữ k(ca). Âm c(cờ) đứng trước âm đệm được viết bằng con chữ q (quy). Trong tiếng Việt, có hai âm được gọi là âm đệm đó là âm o và âm u nếu âm o, âm u đứng trước âm chính. Nhưng nếu âm o, âm u đứng sau âm chính thì được gọi là âm cuối. Vì vậy khi viết c(cờ) đứng trước âm đệm của vần có âm đầu vần là o thì o được viết thành âm đệm u.VD: viết tiếng qua: Đánh vần cờ -> oa -> coa. Lúc này viết đúng sẽ là: q (cờ) -> oa-> qoa, (vì âm c(cờ) đứng trước vần có âm đệm là o nên phải viết là q(quy) và âm đệm o sẽ viết là âm đệm u vì khi viết q (quy) chỉ ghép được với âm đệm u).
Sang đến phần vần yêu cầu các em hiểu và nhớ được thêm và các vần có âm e; âm ê; âm I đứng đầu vần., yêu cầu học thuộc. cho đến tuần 25, sang phần tập đọc các em được viết chính tả. Sau mỗi bài viết, sẽ có phần bài tập chính tả nên hướng dẫn các em làm bài tập chính tả (vở bài tập tiếng Việt - VBTTV), Các dạng bài tập tương đối phong phú nhưng chủ yếu nhất vẫn là điền âm dễ lẫn (l/n; s/x; ch/tr; g/gh; ng/ngh; c/k/q và vần dễ lẫn iê/yê; ai/aythanh dễ lẫn như thanh hỏi/ ngã). VD: Ngay bài chính tả đầu tiên (bài: Trường em – tuần 25) bài tập 3 (trang 25- VBTTV1/2) yêu cầu: 
+ Điền c hay k?
 ..á vàng; thước .ẻ; ..iến lửa; lá ...ọ
Trong những năm học trước, với dạng bài tập như thế này, khi được gọi lên bảng điền âm, ngay cả khi tôi chấm bài trong VBTTV của các em, rất nhiều em còn nhầm lẫn giữa âm c/k.
 VD: các em điền: cá vàng; thước cẻ; ciến lửa; lá cọ. 
Từ những lỗi sai trên, tôi đã hướng dẫn giúp các em hiểu rõ về luật chính tả và tôi cũng cho các em nhắc lại luật chính tả âm k (âm ca). Tôi ghi bảng phụ và treo ở lớp về luật chính tả âm k: k -> e; ê; i (và hướng dẫn các em đọc): Âm k chỉ ghép được với âm e; âm ê; âm i (y) và các vần có âm e; âm ê; âm i đứng đầu vần giáo viên cần định hướng giúp các em hiểu yêu cầu của đề điền c hoặc k vào chỗ chấm đó. Giáo viên nên để học sinh tự làm bài trong (VBTTV), giáo viên chấm một số bài, sau đó gọi lần lượt các em lên bảng điền. Cho các em nhận xét và chữa lỗi chung.
 Âm cần điền đúng là: cá vàng; thước kẻ; kiến lửa; lá cọ
* Chốt ý: Yêu cầu học sinh nhắc lại luật chính tả âm k: ( âm k (ca) chỉ ghép được với âm e, âm ê, âm i(y) và các vần có âm e, âm ê, âm i đứng đầu vần). Phần chốt ý này chính là điểm tựa để giúp các em hiểu, nhớ lâu và vận dụng thực hành khi viết tốt hơn. 
- Với âm q (dạy theo TV1 hiện hành) thì q không thể ghép với bất kì âm nào nếu thiếu (u). Như vậy q bắt buộc phải ghép với u tạo thành âm qu (quờ). Lúc này GV giúp các em hiểu: qu ghép được với các âm a; e; ê; y (i dài) và các vần có âm a; e; ê; ă; â đứng đầu vần, khi ghép với vần có âm u đứng đầu vần theo luật chính tả phải bỏ đi một con chữ u. VD: viết chữ quyên: đúng phải viết là: qu -> uyên -> quuyên. Nhưng do luật chính tả khi viết có 2 con chữ u liền nhau, phải bỏ bớt đi 1 con chữ u, và viết đúng chính tả phải là quyên.
 + Riêng sang phần vần giáo viên hướng dẫn thêm ( và các vần có âm e; âm ê; âm i đứng đầu vần). Do trí nhớ của các em phát triển chưa bền vững, nhanh nhớ mau quên nên giáo viên phải thường xuyên giúp các em nhớ bằng cách hằng ngày tôi chỉ vào bảng luật chính tả đó và yêu cầu đọc, làm vậy sẽ giúp các em khắc sâu kiến thức về luật chính tả hơn.
	e
 * k ê
	i
	* Dạy luật chính tả khi viết vần có âm đôi iê/ yê đứng đầu vần.
	- Giúp các em hiểu: Khi viết vần có âm đôi iê; yê thì vần đó phải có âm cuối. nếu vần không có âm cuối, ta viết iê -> ia(VD: tía, kia. Không viết tiế, kiê viết vậy là sai cấu trúc ngữ pháp). 
	Khi dạy đến vần có âm đôi iê/yê là bài 41 – SGKTV1 (hiện hành), Tuy trong SGK thiết kế rất rõ ràng đúng về luật chính tả ở các tiếng có chứa vần iê (yê). Nhưng nếu giáo viên dạy không chú ý giúp học sinh hiểu luật chính tả thì cũng rất nhiều em viết không đúng.VD: yêu cầu viết từ: chú tiểu; yểu điệu, thì cũng còn có những em viết: chú tyểu; iểu đyệu hoặc iểu điệu. 
	* Chốt ý: - Viết vần có âm đôi iê đứng đầu vần: Những chữ có âm đầu thì được viết với vần có âm đôi iê. VD: kiến thiết, biển
	- Viết vần có âm yê đứng đầu vần: Khi viết chữ đó không có âm đầu. VD: yên xe, yếm dãi; Yết Kiêu. Tôi cũng ghi ra bảng phụ và treo tường lớp học, nhắc các em học thuộc để vận dụng khi viết. Khi viết tới tiếng có chứa vần iê (yê), tôi thường hỏi trước khi cho các em viết như: Khi nào thì viết chữ chứa vần có yê (I dài và ê) đứng đầu vần? Câu hỏi của giáo viên như vậy sẽ giúp các em định hướng để các em viết cho đúng. sau đó tôi cho các em “Rung chuông vàng” viết từ có chứa vần dễ lẫn iê/yê, sau dần thành quen, tôi không hỏi nữa mà chỉ đọc và yêu cầu viết.
* Quy tắc ghi dấu thanh:
Đối với những tiếng có âm cuối là p; c; ch; t (âm tắc) thì chỉ kết hơp được với thanh sắc, thanh nặng.
VD: Yêu cầu học sinh viết từ: mướp, nhưng có nhiều em viết mươp (thanh ngang), hay hoặc viết mươp kết hợp với một số thanh khác như thanh ( hỏi, sắc, ngã, huyền), viết vậy tiếng đó không đúng chính tả và làm cho người đọc cũng không hiểu nghĩa của từ đó. nên trong quá trình dạy học, sau bài làm quen với các dấu thanh (5 thanh cụ thể là: thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, thanh năng ) ra thì giáo viên cần cung cấp cho các em hiểu thêm về thanh ngang. Những tiếng mà các em nhìn không thấy thanh điệu nào, đó chính là tiếng có thanh ngang. Như vậy bất kì tiếng nào cũng có dấu thanh. Nhưng khi viết những tiếng chứa vần có âm cuối là âm t; âm c; âm ch; âm p chỉ kết hợp được với hai thanh, Đó là thanh sắc và thanh nặng như ví dụ nêu trên. Ngoài ra, giáo viên cần giúp các em hiểu:
+ Dấu thanh được ghi ở vị trí âm chính. (VD: số bảy, túi vải, đồng bào, hồ Hoàn Kiếm)
+ Ở các nguyên âm có dấu mũ thì các dấu thanh được viết hơi cao lệch về bên phỉa của dấu mũ. (VD: niềng niễng, chim Yểng).
+ Khi viết tiếng có nguyên âm đôi, mà không có âm cuối thì dấu thanh được ghi ở con chữ thứ nhất của âm đôi đó (VD: tỉa, múa, lửa).
 	+Trong tiếng có nguyên âm đôi mà có âm cuối vần thì dấu thanh được viết ở con chữ thứ hai của nguyên âm đôi (VD: ước muốn, chai rượu, cá biển.) Là giáo viên chủ nhiệm lớp đàu cấp, tôi đảm nhiệm dạy ba môn trong đó có hai môn học được coi là môn công cụ đó là môn toán và tiếng Việt, nên mỗi khi chấm bài, gọi học sinh lên bảng làm bài tập chính tả, bản thân tôi luôn cảm thấy buồn và chạnh lòng khi những chữ viết của các em có quá nhiều lỗi chính tả như âm đầu, luật chính tả âm đầu mà các em còn hay nhầm giữa k/c/q; gh (ngh ) và vần có iê/yê.
Như ở trường tôi hiện đang công tác, là trường khó khăn ( nhiều HSDTTS); nên khi viết chính tả, việc các em viết chữ sai dấu thanh là phổ biến. VD: viết từ: cửa sổ. Các em là HSDTTS (đặc biết học sinh dân tộc Ê – đê) các em thường viết thiếu dấu thanh do phát âm chưa đúng, các em viết là: cưa sô hoặc cưa số, hay hoặc nhầm giữa tiếng có thanh dễ lẫn như hỏi/ ngã/ sắc, từ việc phát âm chuyển sang chữ viết thường có sự lôgic. Để giúp các em khắc phục tồn tại này, trước khi viết, giáo viên cần cho các em đánh vần (VD từ cửa sổ: c -> ưa -> cưa -> hỏi cửa, như vậy qua đánh vần đã giúp định hướng cho các em viết đúng, đủ dấu thanh. 
	* Dạy chính tả trong các môn học khác.
	Việc nghe viết chính tả là một kĩ năng, vì vậy người giáo viên coi đây là môt việc làm thường xuyên. Với những môn không phải là chính tả nhưng vẫn dạy chính tả thì giáo viên cần hướng dẫn cho các em mẹo viết khi nghe viết. Cụ thể khi dạy tiếng Việt hiện hành đối với những em nghe viết còn nhiều hạn chế như viết chưa định hướng đúng con chữ (hoặc vần, hoặc chữ, dấu thanh), thì giáo viên cần hướng dẫn cho các em cách nhẩm để viết (VD: bé và dì đi đò), giáo viên cần khắc sâu giúp các hiểu tiếng nào đọc trước viết trước, khi viết chữ đó cần đánh vần thầm kết hợp viết (VD: viết chữ bé: Đánh vần b (viết con chữ b -> e (viết con chữ e liền mạch với con chữ b và tạo được be) -> sắc (viết dấu thanh sắc trên e) -> bé (chữ bé hoàn chỉnh). Tương tự với các chữ tiếp theo. Đối với chữ có vần dài cũng vận dụng tương tự. (VD: huấn luyện. Đánh vần thầm chữ huấn: h (viết con chữ h) -> uân (đánh vần vần uân: u -> â -> n -> uân kết hợp viết uân) -> huân -> sắc (viết dấu thanh sắc) –> huấn, (viết chữ luyện tương tự). Nhắc nhở các em trong quá trình viết một chữ, phải viết liền mạch chữ (các con chữ phải dính vào nhau).
	- Trong môn toán:
	Việc các em đọc được nhưng chưa chắc đã nghe viết đúng chữ cần viết là điều không thể tránh khỏi với học sinh bậc tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp 1. Dạy chính tả đúng theo chương trình môn tiếng Việt lớp 1 hiện hành rất ít (dạy phân môn chính tả theo sách tiếng Việt hiện hành bắt đầu từ tuần 25 trớ đi). Theo phân phối chương trình có 2 tiết/ tuần. Hầu như chính tả ở lớp 1 chủ yếu là tập chép, nên việc khắc sâu kiến thức cho các em ít. Mà luật chính tả lại nhiều. Không những luật chính tả tôi nêu trên, các em còn phải viết đúng chính tả âm khác dễ lẫn như s/x; l/n; luật chính tả ghi dấu thanh khi âm cuối là các âm p; ch; c; t chính vì lý do đó mà tôi dạy chính tả ngay trong môn học toán như khi đến tiết ôn luyện toán, tôi thường đọc dề toán dạng toán giải có lời văn cho các em nghe viết, sau đó tôi chấm cả cách giải toán và phần đề (nghe viết). Như vậy giáo viên đã giúp học sinh làm quen nghe viết. Khi đọc đề để các em tập làm quen với nghe viết cần đọc chậm, các chữ đơn giản, đề ngắn gọn. VD: bà có 9 cái kẹo, bà cho Lê 2 cái kẹo. Hỏi bà còn mấy cái kẹo?. Đây coi như TCTV trong môn học toán. Việc các em viết đúng đề, sẽ góp phần giúp các em viết lời giải đúng hơn. và trong quá trình kiểm tra, đánh giá, giáo viên cần giúp các em viết đúng chính tả (viết dề) và làm bài giải.
	- Trong môn âm nhạc và hoạt động tập thể.
	Các em phát âm chuẩn, khi viết chính tả sẽ ít bị mắc lỗi chính tả hơn nên GVCN cần phối kết hợp với giáo viên bộ môn như môn âm nhạc, sinh hoạt sao sẽ giúp các em vui mà học, ngoài ra còn tăng cường tiếng Việt cho các em và vận dụng để khi chép hoặc nghe viết chính tả đúng hơn.
	* Sửa lỗi chính tả khi học sinh viết bài.
	Khi sang phần dạy chính tả, ngoài việc dạy luật chính tả như nêu trên. Giáo viên cần chú trọng việc sửa lỗi chính tả cho các em sau mỗi bài viết. Giáo viên chữa lỗi trong vở của từng học sinh, nếu có những lỗi sai chung, phổ biến, giáo viên phải chữa lỗi sai chung đó giúp học sinh khắc phục được lỗi chung để rút kinh nghiệm trong quá trình viết tiếp theo.
*  Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời.
Đây chính là động lực lớn góp phần vào sự hứng thú, say mê, tự giác học tập của các em. Giáo viên cần làm rất tốt công tác nêu gương (được thông qua hình thức tuyên dương sau mỗi câu trả lời đúng của các em sau khi có học sinh trả lời, tôi gọi em khác nhận xét bài làm hoặc câu trả lời của bạn, gọi em thứ ba nhận xét hai bạn trước), nếu đúng, yêu cầu cả lớp thưởng tràng pháo tay, và đây cũng chính là đánh giá theo TT22/2016 BGD-ĐT. Ngoài ra cần làm tốt việc học sinh bình chọn bông hoa học tốt để ghi vào bảng thi đua của lớp vào cuối mỗi tuần (tiết sinh hoạt lớp). 
* Công tác phối kết hợp với cha (mẹ) học sinh
- Là giáo viên chủ nhiệm lớp, đặc biệt lớp học đầu cấp nên giáo viên cần làm tốt công tác tuyên truyền. Ngay buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm về cách học của các em và cách kiểm tra của phụ huynh khi ở nhà. Đây là động lực nòng cốt không thể thiếu mỗi khi các em đến trường. Tôi thường làm ví dụ minh họa cho cách dạy kèm các em khi ở nhà để giúp cha mẹ các em hiểu và cùng làm theo cũng như kết hợp nhắc nhở, đôn đốc các em trong học tập khi ở nhà để cùng giáo viên giúp đỡ học sinh. Muốn học sinh thực hiện tốt các yêu cầu trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ. (Riêng đối với các em là HSDTTS), giáo viên cần khích lệ, động viên khi ở nhà phụ huynh nên nói tiếng Việt trong quá trình giao tiếp, cũng sẽ giúp cho các em có kĩ năng nói chuẩn và viết tốt hơn.
* Sử dụng hợp lý, có hiệu quả đồ dùng dạy học, đặc biệt là đồ dùng trực quan.
- Giáo viên cần có ĐDDH đó là yêu cầu bắt buộc trong mỗi tiết dạy, chống dạy chay. Với môn tiếng Việt, việc sử dụng đồ dùng trong dạy học là rất cần thiết. Ở lớp 1, ngoài việc sử dụng ĐDDH của BGD-ĐT là bộ tranh tăng cường tiếng Việt, tranh dạy kể chuyện nhằm giúp các em hứng thú trong học tập và giải nghĩa từ qua tranh, ảnh đó ra thì quan trọng nhất, hữu hiệu nhất với tôi vẫn là ĐDDH vốn có sẵn đó là miệng của chúng ta. Giáo viên cần phát âm chuẩn từng âm tiết và phải biết phát huy được đồ dùng trực quan hữu hiệu này như hướng dẫn các em mở khẩu miệng, môi, vị trí lưỡi, cách bật hơi khi phát âm.
          * Tích cực, kiên trì và chủ động, sáng tạo đổi mới phương pháp dạy học.
          - Chuẩn bị bài trước khi lên lớp rất quan trọng nên việc xây dựng mục tiêu bài học cũng như sắp xếp, tổ chức các hoạt động dạy - học cần được coi trọng.
- Ngoài ra giáo viên cần mạnh dạn trao đổi những vấn đề khó, những vấn đề mới với ban giám hiệu, đồng nghiệp để được tư vấn.
- Trong giảng dạy có nhiều học sinh nhận thức chậm. Giáo viên phải kiên trì, không nên khắt khe mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia  vào các hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn
- Giáo viên tích cực đổ

Tài liệu đính kèm:

  • docth_24_2075_2021897.doc