Từ việc xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của việc nghiên cứu đề tài cũng như nhiệm vụ trọng tâm của đề tài, Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí luận, quan sát trò chuyện, khảo nghiệm và một số phương pháp khác.
Bộ môn tin học là bộ môn mới và chủ yếu là thực hành. Để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành giáo viên phải biết tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học.
- Nắm bắt sâu sát đối tượng học sinh áp dụng những biện pháp phù hợp tạo điều kện thuận lợi để các em tiếp thu bài tốt nhất. Sưu tầm một số trò chơi có ích để rèn luyện về ngón khi sử dụng bàn phím (Mario Typing), phần mềm luyện tư duy, tính toán, nhanh nhạy, giải trí (Solitare, minesweeper)
- Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin học nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng Tin học cho bản thân bằng cách tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể hỏi các đồng nghiệp của trường bạn.
mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 3, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học. * Giáo viên Giáo viên được đào tạo những kiến thức đạt chuẩn về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc tiểu học. * Học sinh Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. b. Khó khăn Nhà trường đã có hai phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng lại ở hai phân hiệu vì vậy vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 – 4 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính. Học sinh chưa có sách giáo khoa để học, các em chỉ được học những kiến thức thông qua bài giảng của giáo viên dạy trên lớp. Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp. Thành công và hạn chế Thành công - Có được sự quan tâm chú ý của các cấp uỷ đảng, nhà trường, phụ huynh tạo điều kiện mua sắm máy móc thiết bị để các em có được phòng máy học tập. Đề tài tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch chương trình giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh tiểu học. - Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh tiếp cận với công nghệ thông tin. - Các phần mềm phục vụ giảng dạy như: + Phần mềm soạn thảo văn bản: Học sinh ứng dụng từ các môn học Tập Làm Văn để trình bày đoạn văn bản sao cho phù hợp, đúng cách. ứng dụng soạn thảo văn bản để soạn thảo giải những bài toán đã học ở bậc tiểu học. + Phần mềm vẽ: Học sinh ứng dụng trong môn Mỹ thuật, học được từ môn mỹ thuật để vẽ những hình ảnh sao cho sinh động, hài hoà thẩm mĩ. - Trong chương trình tin học ở bậc tiểu học được phân bố xen kẽ giữa các bài vừa học, vừa chơi. Điều đó sẽ rèn luyện cho học sinh óc tư duy sáng tạo trong quá trình chơi những trò chơi mang tính bổ ích giúp cho học sinh thư giãn sau những giờ học căng thẳng ở lớp, Học sinh hứng thú say mê với bộ môn tin học, giúp các em sáng tạo, chăm chỉ tìm tòi khám phá. b. Hạn chế - Xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm và thử nghiệm còn mới mẻ. - Đa phần học sinh ở nhà không có máy tính, chủ yếu là sử dụng máy ở trường nên việc thực hành các thao tác gặp khó khăn. - Đội ngũ giáo viên phần lớn là giáo viên lớn tuổi, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy còn hạn chế nên sự hợp tác trong việc nghiên cứu đề tài chưa cao. - Học sinh hai phân hiệu là người dân tộc Ê đê, sự hiểu biết của các em còn hạn chế, sự tìm tòi khám phá còn gặp nhiều bỡ ngỡ vì ngôn ngữ đặc thù của môn Tin học là ngôn ngữ trừu tượng, khó hiểu. Một số thông tin trên máy tính sử dụng bằng thuật ngữ và tiếng Anh chuyên ngành, nên các em còn gặp nhiều khó khăn trong việc học tập và thực hành máy tính. Những mặt mạnh- mặt yếu của đề tài a. Mặt mạnh Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như: - Góp phần hình thành và phát triển tư duy thuật giải. - Bước đầu hình thành năng lực tổ chức và xử lý thông tin. - Có ý thức và thói quen sử dụng máy tính trong hoạt động học tập, lao động xã hội hiện đại. - Có thái độ đúng khi sử dụng máy tính các sản phẩm tin học. - Bước đầu hiểu khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập - Có ý thức tìm hiểu công nghệ thông tin trong các hoạt động xã hội. b. Mặt yếu Học sinh còn bỡ ngỡ e dè với các phần mềm do phần lớn được sử dụng bằng câu lệnh ngoại ngữ chuyên ngành mà học sinh khó ghi nhớ. Các nguyên nhân và các yếu tố tác động Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo mới đang thí điểm dạy môn Tin học vào cho một số tỉnh và thành phố như thành phố Hải Phòng, Hà nội, Hạ Long, Hồ Chí Minh ... Việc biên soạn SGK vẫn còn nhiều bất cập chưa hợp lý đặc biệt rất khó khăn cho giáo viên trong việc cập nhật update phần mềm thực hành cho học sinh tiểu học. Việc nối mạng và sử dụng mạng lan đôi khi còn gặp một số vấn đề khó khăn vì điều kiện hoàn cảnh của trường ở vùng sâu, vùng xa nên đường truyền chưa được ổn định. Phân tích đánh giá các vấn đề mà thực trạng đề tài đã đặt ra Trong những năm qua, ngành giáo dục đã xây dựng một kế hoạch tổng thể về công nghệ thông tin, mục tiêu phấn đấu Tin học phải được sử dụng để hỗ trợ cho việc dạy và học các môn học khác. Tuy nhiên đối với trường Tiểu học Lê Hồng Phong vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Thực hành trên máy tính là bắt buộc và là một cấu thành của bài giảng lý thuyết. Nhiều kiến thức và bài học được diễn đạt thông qua các bược thực hành và thao tác cụ thể trên máy tính. Đối với môn Tin học, giáo viên rất khó truyền đạt khi không có máy tính để minh họa hay thực hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu trong giờ học trên lớp học truyền thống chỉ với phấn và bảng thì việc tiếp thu kiến thức bài học có thể bị giảm đến 90%, vì lứa tuổi của các em còn nhỏ, nhất là học sinh khối lớp 4. Ví dụ: trong bài Thông tin được lưu ở đâu? Giáo viên khi đến lớp phải chuẩn bị các đồ dùng trực quan như ổ đĩa cứng, ổ đĩa CD, thiết bị nhớ Flash (thẻ nhớ), USB,. Giáo viên cần chỉ ra cho học sinh biết được đâu là thiết bị nhớ trong, đâu là thiết bị nhớ ngoài, . Từ đó dẫn vào bài học. Khi ta soạn xong một tệp văn bản, ta lưu vào đâu, đặt tên, đường dẫn,. Quan trọng nhất là các bước tạo một thư mục riêng để lưu trữ bài làm và tài liệu của mình. Giáo viên có thể liên hệ thực tế đến tủ sách vở, tủ quần áo của học sinh ở nhà, nếu để ngăn nắp gọn gang thì dễ tìm kiếm, nếu để lộn xộn thì sẽ khó khăn trong việc tìm kiếm đồ dùng cũng như tài liệu, thì dữ liệu trong máy tính cũng vậy. Khi ta sắp xếp dữ liệu theo từng thư mục, ta sẽ dễ dàng tìm được khi ta cần dùng đến. Từ đó, tôi nghiên cứu bài giảng áp dụng với các môn Tập làm văn, mỹ thuật, toán, . trong các tiết thực hành để các em khắc ghi bài học sâu sắc hơn đồng thời giúp các em có kĩ năng luyện gõ phím, thao tác nhanh với chuột máy tính. Đối tượng nghiên cứu là các em học sinh tiểu học, trường học thuộc địa bàn vùng xa, điều kiện kinh tế còn thấp, phụ huynh các em hầu hết làm nghề nông, gia đình các em không có điều kiện phục vụ cho việc học tập của các em. Hơn nữa, điều kiện mua máy tính cho các em học chưa có, chính vì vậy các em chỉ tiếp xúc với máy tính trong giờ Tin học, mà mỗi lớp chỉ học được 2 tiết/ tuần, lớp học lại đông, không đủ số lượng máy phục vụ cho các em, chính vì vậy mà các em đã ít có cơ hội tiếp xúc với máy tính, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em bởi việc dạy hiện nay vẫn chủ yếu nặng về lý thuyết và nhẹ ở phần thực hành. Tuy gặp nhiều khó khăn do các yếu tố tác động, nhưng là một nhà giáo giảng dạy môn kiến thức trừu tượng này, tôi đã kết hợp nhiều cách dạy khác nhau nhằm tạo hứng thú cho các em khi dạy phần lý thuyết. Ví dụ: Trong phần soạn thảo văn bản, tôi dùng mạng lan để giúp các em quan sát kĩ hơn từng thao tác của giáo viên, và quản lý được học sinh của mình. Trong giờ thực hành, học sinh thao tác máy, tôi có thể kiểm tra và biết được các em đang làm gì, ai thực hành tốt hơn để tuyên dương trước lớp. Trong giờ thực hành soạn thảo văn bản của lớp 4 và 5, tôi khuyến khích các em viết thể loại văn mà các em vừa mới học nhằm giúp các em vừa luyện gõ phím vừa khắc sâu bài học hơn. Trong phần mềm vẽ Paint cho học sinh lớp 3, 4, 5 tôi dạy bằng máy chiếu, vì trong phần này, lý thuyết và thực hành song song nhau. Chính vì vậy, để các em quan sát trực quan và cùng tập vẽ với giáo viên trên máy của mình, qua cách đó các em sẽ nắm bài tốt hơn, các em sẽ áp dụng môn mỹ thuật vào phần thực hành Paint. Với từng phần mềm, người giáo viên nghiên cứu, linh hoạt bài giảng của mình sẽ làm cho tiết học sinh động hơn và học sinh có hứng thú trong tiết học Tin học. CÁC GIẢI PHÁP BIỆN PHÁP Mục tiêu của giải pháp - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của Đề tài. - Biện pháp và việc dạy tin học trong bậc tiểu học. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp * Trước khi thực hiện Đề tài, tôi đã khảo sát khối lớp 4,5 thông qua giờ dạy lý thuyết, dạy thực hành, kiểm tra bài cũ. Khi tổng hợp kết quả thu được: Trước khi thực hiện đề tài Mức độ thao tác Mức độ Số học sinh Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 23/93 24% Thao tác đúng 35/93 38% Thao tác chậm 24/93 26% Chưa biết thao tác 11/93 12% * Một số biện pháp để dạy tin học có hiệu quả hơn trong bậc tiểu học 1. Xây dựng kế hoạch bài dạy - Ngay từ bài học đầu tiên trong chương trình học Tin học, giáo viên phải xác định rõ cho học sinh nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho học sinh quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Ví dụ: Bài làm quen với máy tính (lớp 3) Khi giáo viên giới thiệu bộ phận con chuột, giáo viên phải mô tả con chuột, có mấy loại con chuột, trên thân con chuột có những phím nào, chức năng của các phím đó, tay đặt lên con chuột đó như thế nào - Học sinh quan sát con chuột, quan sát thao tác của cô giáo khi sử dụng chuột trong quá trình học tập. - Giáo viên biết kết hợp giữa giờ lý thuyết và thực hành sao cho phù hợp, không nên xem nhẹ giờ dạy lý thuyết thì mới thực hành tốt được cũng như khi học sinh thực hành tốt thì sẽ hiểu sâu hơn về lý thuyết. Ví dụ: Khi học bài các thao tác với tệp tin văn bản (khối 4). Giáo viên dạy phần lưu văn bản, mở văn bản. Khi học lý thuyết học sinh mới chỉ hiểu là lưu văn bản vào trong máy là để văn bản đó không bị mất đi, có thể mở ra được. Nhưng đến khi thực hành học sinh mới thực sự hiểu rằng khi lưu văn bản đó luôn luôn được lưu trữ và tồn tại trong máy, có thể mở ra bất cứ lúc nào để chỉnh, xem và chỉnh sửa. - Giáo viên nên tận dụng những phương tiện sẵn có của môn tin học áp dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết, giúp cho buổi học thực hành của hiệu quả hơn. Qua đợt khảo sát đầu năm học học với học sinh khối 4 (lớp 4A và lớp 4B) dạy bài các thao tác với tệp tin văn bản. Lớp 4A dạy có sử dụng đồ dùng trực quan bằng máy tính, thao tác trên máy tính. bài khám phá máy tính . Giáo viên hướng dẫn trực tiếp học sinh trên máy Tệp Thư mục Tệp: Khi em lưu bài thơ soạn thảo bằng Word hay bức tranh vẽ bằng chương trình Paint, hình ảnh chụp, báo cáo bằng Excel, thông tin đó được ghi trên đĩa cứng, USB, thiết bị nhớ flash, thành 1 tệp. Mỗi tệp có 1 tên. Mỗi tệp sẽ là 1 biểu tượng. Tệp có thể là chương trình máy tính hoặc dữ liệu. Thư mục: Là nơi chứa các tệp có tác dụng quản lí dữ liệu. Trong thư mục có thể chứa các thư mục khác gọi là thư mục con. Mỗi thư mục cũng có 1 tên. Đĩa CD Còn lớp 4B dạy sử dụng đồ dùng trực quan bằng hộp thoại miêu tả hình ảnh trong máy tính. Trong bài “Chương trình máy tính được lưu ở đâu” Thiết bị nhớ USB Thiết bị nhớ Flash Đĩa cứng * Khi tổng hợp kết quả thu được Mức độ thao tác LỚP 4A LỚP 4B Số HS Tỷ lệ Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh 12/22 54% 11/20 55% Thao tác chậm 9/22 42% 9/20 45% Chưa biết thao tác 1/22 4% 0/20 20% Ví dụ: Dạy bài vẽ đường thẳng, giáo viên giao bài tập thực hành, sau đó hướng dẫn (theo nhóm) trực tiếp trên máy cho học sinh dễ quan sát thao tác của cô và lời nói của cô. trong khi thực hành, nếu em học sinh nào chưa thực hành được, giáo viên lại hướng dẫn cho em đó hoặc bắt tay em đó và hướng dẫn các thao tác. Ví dụ : Trong bài thực hành vẽ đường thẳng, đường cong lớp 4 Giáo viên gợi ý hướng dẫn như sau: ? Làm thế nào để vẽ đường thẳng được, thẳng đứng theo chiều dọc hoặc chiều ngang. Nêu các bước vẽ đường thẳng. ? Để đường cong không bị méo và bị mất em phải làm gì. Nêu các bước vẽ đường cong. HƯỚNG DẪN CÁC BƯỚC VẼ Bước 1 : Chọn công cụ vẽ đường thẳng Bước 2 : Chọn nét vẽ Bước 3 : Chọn màu vẽ Giữ phím Shift Bước1: Chọn công cụ đường thẳng Bước2: Giữ phím Shift và vẽ đường thẳng đó Chọn kích chuột thêm 1 lần vào đường cong Bước1: Chọn công cụ vẽ đường cong Bước2: Vẽ đường thẳng và uốn cong đường thẳng Bước 3 Kích chuột thêm 1 lần vào đường cong 2. Xây dựng các bài thực hành với nội dung phù hợp Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phù hợp với nội dung của bài giảng, liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các em. Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận dụng vẽ một cách có hệ thống. Trong một giờ thực hành với bài vẽ hình vuông sau: Ở hình trên ngoài vẽ hình vuông ra học sinh còn phải sử dụng công cụ vẽ đường thẳng, vẽ đường cong một chiều, màu vẽ đã học ở bài trước để vẽ và trang trí cho các hoa văn của hình vuông trên. Từ hình vuông trên các em sẽ liên tưởng đến bài học trang trí hình vuông (Môn mỹ thuật lớp 4) và sáng tạo vẽ một số hình vuông đã học ở môn Mỹ thuật 4. Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo sự tranh đua giữa các nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm nhận xét, chấm điểm (dưới sự chỉ dẫn của giáo viên) của nhau để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành. 3. Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. 4. Tạo một số trò chơi để học sinh củng cố lại kiến thức một cách có hệ thống. Đây không chỉ là trò chơi trong môn Tin học, mà còn áp dụng được cho nhiều môn học khác như: Tiếng Việt, Toán, Tiếng Anh, Khoa học, Lịch sử, Địa lý, Tự nhiên xã hội. Giáo viên thiết kế một số trò chơi trí tuệ như Chiếc nón kỳ diệu, Giải ô chữ bí mật, Thỏ tìm cà rốt, khu vườn bí ẩn,. Sau mỗi bài học lý thuyết, sau các tiết thực hành hoặc sau mỗi chương giáo viên củng cố lại bài học, mạch kiến thức để học sinh khắc sâu kiến thức hơn. 5. Lên kế hoạch bồi dưỡng Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhật thông tin một cách đầy đủ, chính xác giúp giáo viên có điều kiện bổ sung và mở rộng những kiến thức, giúp giáo viên đánh giá sự tiếp thu của học sinh và trình độ tư duy của các em. Giáo viên có điều kiện trực tiếp uốn nắn những tri thức sai lệch, không chuẩn xác và định hướng kiến thức cần thiết cho học sinh. Kiểm nghiệm tính đúng đắn của những phương pháp, phương thức giảng dạy và học tập có tính đặc thù của môn học, cũng như đối với phần, chương, mục của bài giảng để bài học được sinh động và học sinh có hứng thú hơn trong học tập. Điều kiện thực hiện giải pháp và biện pháp đề tài Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin học nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng Tin học cho bản thân bằng cách tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể hỏi các đồng nghiệp của trường bạn. Bên cạnh tìm hiểu kiến thức về Tin học, giáo viên cũng phải tìm hiểu các kiến thức khác như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội để tự nâng cao nhận thức của bản thân. Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp Từ việc xác định rõ vai trò và tầm quan trọng của việc nghiên cứu đề tài cũng như nhiệm vụ trọng tâm của đề tài, Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí luận, quan sát trò chuyện, khảo nghiệm và một số phương pháp khác. Bộ môn tin học là bộ môn mới và chủ yếu là thực hành. Để tạo được sự hào hứng học tập và sáng tạo trong quá trình thực hành giáo viên phải biết tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. - Nắm bắt sâu sát đối tượng học sinh áp dụng những biện pháp phù hợp tạo điều kện thuận lợi để các em tiếp thu bài tốt nhất. Sưu tầm một số trò chơi có ích để rèn luyện về ngón khi sử dụng bàn phím (Mario Typing), phần mềm luyện tư duy, tính toán, nhanh nhạy, giải trí (Solitare, minesweeper) - Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin học nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng Tin học cho bản thân bằng cách tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể hỏi các đồng nghiệp của trường bạn. Những việc cụ thể cần làm khi chuẩn bị một bài dạy Để tiết dạy của mình đạt kết quả cao thì việc soạn giáo án là nhiệm vụ rất quan trọng. Nếu như trước giờ lên lớp giáo viên đã có sự chuẩn bị chu đáo về giáo án và các phương tiện dạy học thì sẽ vững tin hơn khi lên bục giảng. Vậy việc chuẩn bị một giáo án cần làm những công việc gì? + Nghiên cứu tài liệu và xác định nội dung dạy học: - Nghiên cứu vị trí, yêu cầu các bài học trong kế hoạch dạy học cả năm, nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, sách bài tập và các tài liệu có liên quan tới bài đó. - Xác định cụ thể vị trí và mối liên quan của bài học với bài trước và bài sau. - Xác định cụ thể mục tiêu bài học, mức độ yêu cầu về 3 mặt: Kiến thức mới, phát triển tư duy và khả năng suy luận, rèn luyện kĩ năng. - Xác định kiến thức trọng tâm và quan tâm bồi dưỡng cho những học sinh có khả năng giỏi về bộ môn tin học - Lựa chọn những phương pháp dạy học cụ thể và chuẩn bị các phương tiện tương ứng. Đặc biệt cần lựa chọn một số bài tập ở lớp và ở nhà (có hướng dẫn những chỗ cần thiết nhất là đối với những học sinh kém). Xác định bài tập bắt buộc và bài tập kèm thêm ( chia thành 2 loại cho học sinh trung bình và học sinh khá giỏi). Tự để học sinh thực hành các câu lệnh đã học sau đó hướng dẫn cho các em thực hành những bài tập khó hơn và gợi ý khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. - Soạn các câu lệnh gợi ý hay hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà. Khi làm các bài tập trên phải luôn chú ý tới tính vừa sức với mỗi học sinh. + Kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh về bài học - Tình hình nắm vững kiến thức đã học có liên quan đến bài mới. - Các vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết trong bài mới (Kiến thức nào đã học cần được củng cố và tiếp tục rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, thái độ học tập, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỉ luật của học sinh yếu kém). - Soát lại tình hình sách giáo khoa, các bài tập thực hành và tận dụng tối đa đường truyền mạng lan là thế mạnh của bộ môn tin học. Kết quả thu được qua khảo nghiệm và giá trị của đề tài Qua quá trình áp dụng vào giảng dạy tin học khối 4, so sánh với bảng tổng hợp trước đó đã thu được kết quả như sau Mức độ thao tác Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài Mức độ tăng giảm Số học sinh Tỷ lệ Số học sinh Tỷ lệ Thao tác nhanh đúng 23/93 24% 33/93 36% Tăng : 12% Thao tác đúng 35/93 38% 44/93 47% Tăng : 9 % Thao tác chậm 24/93 26% 16/93 17% Giảm : 9 % Chưa biết thao tác 11/93 12% 0 0 % Giảm : 12 % Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Từ bảng kết quả trên cho thấy các biện pháp áp dụng vào việc dạy học Tin học tiểu học đã trình bày ở trên các em không những nắm chắc kiến thức mà còn thấy các em học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, có chất lượng thực sự. Đề tài “Hướng dẫn học sinh học tốt bộ môn tin học tiểu học” sẽ phần nào giúp các đồng nghiệp có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng vào việc giảng dạy bộ môn tin học còn mới mẻ trong trường tiểu học hiện nay đặc biệt là những trường đang bắt đầu áp dụng bộ môn tin học trong trường tiểu học. Công bằng trong việc đánh giá chất lượng học sinh, tạo niềm tin vững chắc từ phía học sinh, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.Phát hiện kịp thời những kiến thức bị hổng của học sinh để kịp thời phụ đạo bằng nhiều hình thức. Phát hiện những tiến bộ dù là rất nhỏ của các em để kịp thời khuyến khích , động viên học sinh hứng thú học tập, sáng tạo. Hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại như: + Góp phần hì
Tài liệu đính kèm: