Đề tài Một số biện pháp giúp dạy và học tốt văn biểu cảm trong phân môn Tập làm văn - Ngữ văn 7

Đề tài Một số biện pháp giúp dạy và học tốt văn biểu cảm trong phân môn Tập làm văn - Ngữ văn 7

Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau :

 - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao .

 - Việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan của giáo viên vào tiết học còn hạn chế nên đã ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của các em.

 - Bên cạnh những giáo viên thực sự yêu nghề, yêu học sinh thì vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc trong trái tim của các em sau mỗi bài học.

- Do sĩ số lớp đông (39 em/1 lớp) nên rất khó cho giáo viên theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy .

*Đối với học sinh:

- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn, các em không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, trong giờ học không chú ý.

- Trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết cha mẹ các em đều làm thuê hoặc làm rẫy nên các em không có thời gian học ở nhà hoặc thơi gian học rất ít vì phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp .

- Các em chưa hứng thú hoặc không bao giờ đọc sách tham khảo, kể cả văn bản qui định học trong SGK

- Xã hội ngày càng phát triển, đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao làm cho một số em thiếu ý thức học sao nhãng việc học, bị lôi cuốn vào một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game ngày càng nhiều.

 

doc 20 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 3278Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Một số biện pháp giúp dạy và học tốt văn biểu cảm trong phân môn Tập làm văn - Ngữ văn 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong phân môn tập làm văn - Ngữ văn 7 tập 1 .
Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học khảo sát sinh khối 7 của trường THCS Lê Văn Tám năm học 2014-2015
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá. 
- Tìm hiểu thực tế.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận:
Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng biết rằng: Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo hoặc ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn nói chung, dạy văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn, một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm và hơn hết là phải biết truyền tâm hồn đó, trái tim đó đến với học sinh thân yêu của mình.
 Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở phân môn Tập làm văn - Ngữ văn 7 tập 1 thì cả giáo viên và học sinh cần nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm : 
 - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm 
 - Đặc điểm của văn biểu cảm 
 - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm 
 - Cách lập ý của bài văn biểu cảm 
 - Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm 
 - Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.
 2. Thực trạng:
2.1. Thuận lợi - khó khăn:
 	* Thuận lợi: 
 - Khi tôi thực hiện SKKN này đã được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ và khuyến khích, động viên của nhà trường và đồng nghiệp.
 	- Bản thân đã có kinh nghiệm trong công tác dạy học trong nhiều năm.
 - Trong lớp tôi dạy có một số em học sinh yêu thích môn học và có kĩ năng làm văn biểu cảm.
* Khó khăn: 
 	 Mặc dù tôi đã có nhiều biện pháp giúp các em học văn biểu cảm nói riêng và môn Ngữ văn nói chung nhưngmột số học sinh chưa nắm được kiến thức, chưa biết biểu lộ cảm xúc trong bài làm của mình.
2.2 Thành công, hạn chế.
 * Thành công: 
Các em có thói quen rèn luyện cách dùng từ, đặt câu, cách diễn đạt hay hơn, biểu cảm hơn trong quá trình làm văn, đặc biệt là văn biểu cảm. Nhiều em điểm số môn Ngữ văn sau năm học đã được cải thiện rõ rệt
 	* Hạn chế: 
 - Khi thực hiện đề tài này, GV tốn nhiều thời gian, công sức.
 - Một số học sinh vẫn nhầm lẫn giữa văn biểu cảm với kể chuyện hay miêu tả trong quá trình làm bài nên kết quả vẫn không cao.
2.3 . Mặt mạnh, mặt yếu: 
* Mặt mạnh:
 	 Bản thân tôi là một giáo viên được nhà trường phân công giảng dạy nhiều năm, mặt khác tôi tự thấy mình là một GV nhiệt tình, năng nổ nên phần nào thuận lợi trong công tác dạy học nói chung và tìm các biện pháp giúp dạy và học văn biểu cảm nói riêng. Sau khi các em được hướng dẫn sẽ trở thành những học sinh biết cách làm văn biểu cảm, biết vươn lên trong học tập. Bản thân những em đó cảm thấy mình yêu thích môn học hơn.
* Mặt yếu: 
Khi thực hiện đề tài này, nếu GV dành nhiều thời gian cho các em học sinh học yếu văn biểu cảm thì những em học sinh khá trong lớp sẽ nhàm chán.
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến thực trạng:
* Đối với người dạy: 
Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau :
 	- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao .
 	- Việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan của giáo viên vào tiết học còn hạn chế nên đã ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của các em.
 	- Bên cạnh những giáo viên thực sự yêu nghề, yêu học sinh thì vẫn còn một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc trong trái tim của các em sau mỗi bài học. 
- Do sĩ số lớp đông (39 em/1 lớp) nên rất khó cho giáo viên theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy .
*Đối với học sinh: 
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn, các em không chuẩn bị bài trước khi đến lớp, trong giờ học không chú ý.
- Trường nằm trên địa bàn thuộc vùng kinh tế khó khăn, hầu hết cha mẹ các em đều làm thuê hoặc làm rẫy nên các em không có thời gian học ở nhà hoặc thơi gian học rất ít vì phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp .
- Các em chưa hứng thú hoặc không bao giờ đọc sách tham khảo, kể cả văn bản qui định học trong SGK
- Xã hội ngày càng phát triển, đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao làm cho một số em thiếu ý thức học sao nhãng việc học, bị lôi cuốn vào một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game ngày càng nhiều.
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra:
Năm học 2014 - 2015 được nhà trường phân công giảng dạy môn Ngữ văn lớp 7A2, thời gian đầu tôi nhận thấy kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn về văn biểu cảm của một số học sinh còn yếu. Các em viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây em yêu”. Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên trong bài viết của nhiều em không phải viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà các em đi vào tả hoặc kể về loài cây đó. Trong tiết học phụ đạo tôi yêu cầu các em làm đề: “Cảm nghĩ về người thân”. Có em đã viết “Bố em là người chịu thương, chịu khó. Bố rất hay thức khuya dậy sớm để làm những việc mà tối hôm trước bố chưa làm xong. Bố vất vả đi làm thuê tất cả mọi việc mà người ta thuê để kiếm tiền nuôi em. Em thấy vậy bảo bố là bố đừng đi làm thuê nữa, bố hãy chuyển sang sửa xe đạp ở nhà đi. Bố em suy nghĩ một lúc khá lâu rồi nói: đó cũng là một ý kiến hay đấy ”. Bạn nghĩ sao khi đọc đoạn văn trên của em học sinh đó? Không biết các đồng nghiệp của tôi khi đọc có cho rằng đó là một đoạn văn biểu cảm không? Toàn bài viết của em đó đều là những lời văn và đoạn văn tương tự như thế. Cũng với đề văn như trên, một em khác viết “Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con cháu”. Dường như các em cảm nhận và viết văn như một nghĩa vụ bắt buộc phải làm nên các em làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng kể và tả vẫn nhiều hơn biểu cảm .
Dưới đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bài viết số 2 học kì I lớp 7A2 trường THCS Lê Văn Tám năm học 2014 – 2015 mà tôi giảng dạy:
Tỉ lệ học sinh giỏi
Tỉ lệ học sinh khá
Tỉ lệ học sinh trung bình 
Tỉ lệ học sinh yếu 
 2,56%
 15,4%
 74,3%
 7,7%
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
 Những giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài nhằm để giúp học sinh vươn lên trong học tập, giúp các em viết văn đúng, làm văn biểu cảm hay hơn, giàu cảm xúc hơn, có tâm hồn trong sáng nhân ái, các em yêu văn biểu cảm nói riêng và môn Ngữ văn nói chung. 
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
 	Trong bài văn biểu cảm, cảm xúc và suy nghĩ của người viết phải được làm nổi rõ, phải trở thành nội dung chính của bài, chi phối và thể hiện qua việc lựa chọn, sắp xếp các ý và bố cục bài văn. Cảm xúc và suy nghĩ được phát biểu phải là của cá nhân người viết mang tính chân thực, tự nhiên, không giả tạo, giàu giá trị nhân văn, thể hiện các giá trị đạo đức cao đẹp. Nó làm giàu cho tâm hồn người đọc. Muốn làm được như thế tôi nghĩ rằng cần phải có những phương pháp dạy và học văn biểu cảm phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để dạy và học tốt văn biểu cảm trong phân môn Tập làm văn - Ngữ văn 7 như sau :
a. Đối với giáo viên 
 - Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn tập làm văn như: Phương pháp dạy tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận . . .Giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập .
- Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác phẩm văn học, giáo viên cũng luôn luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm :
*Tìm hiểu đề và tìm ý
 Tìm hiểu đề
Đề văn biểu cảm nên ra trong phạm vi rộng để mỗi em tự tìm cho mình một đề tài riêng phù hợp với vốn sống, với tâm trạng và cảm xúc của mỗi em. Làm như vậy mỗi em sẽ tự ra cho mình một đề bài riêng trên cơ sở đề bài chung của thầy. Chính viết theo đề bài riêng ấy mà mỗi em sẽ có một bài văn biểu cảm của riêng mình không giống với bất kì bạn nào trong lớp, không sao chép lại văn của người khác. 
Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau :
-Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài cây, cảnh vật) nào? Về người nào? Về tác phẩm nào?
-Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?).
-Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc? (cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè) 
 Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm xúc gì?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể suồng sã còn viết cho thầy cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang )
 Tìm ý 
 Giai đoạn tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẻ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì các em đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm.Vì vậy, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra, từ đó cảm xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp thì hãy tìm trong trí nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu cả kỉ niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh về đối tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết. Các em cần ghi vắn tắt những ý tưởng ra giấy để nhớ và có điều kiện sắp xếp theo một trình tự hơp lí. 	
Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là đọc kĩ, đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm ra triết lí của nội dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ thuật trong tác phẩm.
* Lập dàn ý 
Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (mở bài, thân bài, kết bài ) như các kiểu văn bản khác .
- Mở bài: Giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về đối tượng 
- Thân bài: Phát triển các cảm xúc chính đã nêu ra ở phần mở bài .
- Kết bài: Khép lại các ý đã trình bày.
GV đưa ra ví dụ cụ thể minh họa:
 Đề bài : Cảm nghĩ về người thân(ông bà, cha mẹ, anh chị.)
Ví dụ minh họa
 1. Mở bài: 
 - Trong những quan hệ tình cảm của con người thì tình cha con là tình cảm máu thịt thiêng liêng; công lao to lớn của người cha được nhắc đến rất nhiều trong ca dao - dân ca (dẫn chứng minh họa) 
 2. Thân bài: 
 * Vai trò của người cha: 
 - Người cha đóng vai trò trụ cột, thường quyết định những việc quan trọng trong gia đình; là chỗ dựa về vật chất lẫn tinh thần của vợ con.
 - Cha kèm cặp, dạy dỗ, truyền kinh nghiệm sống và nâng đỡ các con trên bước đường tạo dựng sự nghiệp
 * Cảm nghĩ của em về người cha thân yêu:
 - Cha em chỉ là một người thợ bình thường, một người nông dân, bác sĩ quanh năm vất vả với công việc. 
 - Đức tính nổi bật của cha là cần cù, chịu khó, hết lòng vì vợ con
 - Cách dạy con của cha rất giản dị: nói ít làm nhiều, lấy lời nói, hành động của mình làm gương cho các con. Thái độ của cha cởi mở, dễ gần, bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc.
 - Các con kính yêu, quý mến và tin tưởng ở cha, cố gắng chăm ngoan, học giỏi để cha vui lòng.
 3. Kết bài:
 - Công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ vô cùng to lớn, sánh ngang với núi cao, biển rộng.
 - Con cái phải biết ơn và đền đáp công lao cha mẹ bằng lời nói và việc làm hiếu nghĩa hằng ngày.
 c. Viết bài 
Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau, tạo thành chỉnh thể thống nhất. Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành văn, đặt câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp.
Khi viết bài, kết nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lôgíc phát triển của cảm xúc, của tình cảm. Theo lôgíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng vào làm nổi rõ lên cảm xúc chính, tình cảm chính cần làm sáng tỏ trong bài. 
d. Sửa bài 
Đa số các em khi làm bài chưa biết cách phân phối thời gian hợp lí nên viết xong là nộp bài, thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Cá biệt có những em chủ quan không cần xem lại bài sau khi viết xong.Vì vậy mà bước tự sửa bài sau khi viết không được các em coi trọng. Do đó giáo viên cần nhắc nhở các em chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp để bài viết của các em thật sự hoàn thiện.
GV đưa ra ví dụ cụ thể minh họa cho các bước:
Đề bài: Loài cây em yêu
Ví dụ minh họa: Em rất yêu hàng phượng vĩ trường em!
 * Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Thể loại : Văn biểu cảm.
 - Đối tượng: Hàng phượng vĩ trường em.
 - Tình cảm : Yêu thích.
 * Bước 2: Tìm ý và lập dàn ý.
 a. Tìm ý:
 - Tuổi của hàng phượng vĩ.
 - Tình cảm của mọi người.
 - Tình cảm của em và các bạn.
 - Hàng phượng vĩ khi vào hè, khi đông đến, xuân sang.
 - Hàng phượng vĩ vào giờ ra chơi, vào giờ học.
 - Hàng phượng vĩ với tất cả thành viên trong trường.
 b. Lập dàn ý:
 Mở bài:
 - Giới thiệu hàng phượng vĩ trường em.
 - Lí do em yêu thích ( đẹp, nhiều bóng mát, gắn với một kỉ niệm)
 Thân bài:
 - Cảm xúc chung:
 + Hàng phượng vĩ đã gắn bó với nhiều thế hệ học sinh của mái trường này
 + Người còn ở lại và người đã đi xa ai cũng nhớ về ngôi trường thân yêu với hàng phượng vĩ già trải bóng dọc sân trường.
 - Đặc điểm nổi bật: 
 + Vào những ngày hè hàng phượng vĩ như những chiếu lửa thắp sáng một vùng trời.
 + Ngày đông phượng ủ mình tránh rét để ngày xuân vươn chồi thức dậy chuẩn bị cho một mùa lửa mới.
 - Tác dụng:
 + Vào những giờ giải lao phượng vui vẻ cười đùa, vào giờ học phượng lặng lẽ xoè bóng mát và khẽ hát theo tiếng giảng bài của cô giáo.
 + Hàng phượng lúc trầm tư như một người bạn lớn, lúc đáng yêu như một đứa trẻ.
 Kết bài:
 - Em luôn nhớ về hàng phượng vĩ đáng yêu ấy.
 - Em ao ước hàng phượng vĩ ấy mãi là người bạn gắn bó với ngôi trường thân yêu này.
 * Bước 3: Viết bài.
 Mở bài: 
- Trực tiếp:
 Ai đã từng đến trường em một lần hẳn sẽ không thể quên hàng phượng vĩ già sừng sững giữa sân trường như một minh chứng cho bề dày lịch sử của ngôi trường. Chúng em rất yêu quý hàng phượng ấy và luôn tự hào khi nhắc đến chúng.
 - Gián tiếp:
 Nếu bạn nói cây cối không có tình cảm tôi dám chắc bạn là người quá vô tình hoặc có đời sống nội tâm quá nghèo nàn. Với riêng tôi, mỗi loài cây đều có tiếng nói riêng và nó gợi trong lòng người những cảm xúc rất riêng. Ví như hàng phượng vĩ trường tôi chẳng hạn. Không hiểu sao tôi luôn tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn mỗi khi nghĩ về hàng cây học trò ấy.
 Thân bài:
..Còn nhớ những trưa hè oi ả, đi qua trường, ngước mắt nhìn lên bắt gặp sắc thắm của những chùm phượng, trong lòng lại rộn ràng những cảm giác thân thương. Thầy cô, bạn bè, những bài toán, câu văn, tiếng hátbiết bao vui buồn, nhung nhớ! Hè phượng thay lũ học sinh chúng tôi thắp sáng ngôi trường, bầu bạn với tường vôi. Phượng mang về đây cả một trời ước mơ hi vọng! Phượng ủ thắm những trái tim và nuôi lớn những ước mơ của thầy và trò nơi đây.
Bước 4: Sửa bài
Tóm lại : Để dạy tốt văn biểu cảm, giáo viên nên chú ý trước tiên đến việc đổi mới cách ra đề.Từ đề tài chung cho cả lớp (có tính định hướng chung), phải thực hiện quá trình cá thể hóa đề bài (quá trình hướng dẫn mỗi học sinh đi từ đề tài chung cho cả lớp đến việc xác định đề bài riêng, đề bài cụ thể phù hợp với vốn sống, với tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi học sinh ). Nếu giáo viên muốn học sinh làm tốt yêu cầu mình đưa ra thì giáo viên không được cho học sinh viết bài văn biểu cảm về đề tài mà các em chưa được sống, chưa có hiểu biết, có cảm xúc. 
Khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, giáo viên nên coi trọng tính cá biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ dài của bài. Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm nhận hoặc một, hai nội dung có sắc thái tình cảm riêng, giáo viên nên trân trọng, biểu dương và tỏ thái độ đánh giá cao qua cách cho điểm .
Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích việc đọc sách của học sinh. Bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong SGK. Thực tế cho thấy học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn bản. Chính vì thế giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của các em bằng cách: trong mỗi tiết dạy giáo viên lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo, sách nâng cao, các tác phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy khiến các em tìm đến với sách, làm bạn với sách. 
Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi chảy, hấp dẫn nên giáo viên cần giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau mỗi tiết học để các em tự rèn kĩ năng viết sáng tạo văn biểu cảm sao cho bài văn ấy cuốn hút người đọc. .
2.Đối với học sinh 
Để học tốt văn biểu cảm, cần biết tạo nên cảm xúc; bởi cảm xúc là sự cảm thụ của trái tim, của tấm lòng và tình cảm người học. Giáo viên hướng cho các em đến với giờ văn bằng trái tim và tấm lòng của mình thì những cung bậc tình cảm vui, buồn hay thương nhớ, hờn giận từ bài giảng của thầy cô sẽ đi vào lòng các em. Các em sẽ biết thương cảm những số phận bất hạnh, biết căm ghét sự bất công, ái xấu, cái ác. Các em biết yêu thiên nhiên hoa cỏ, yêu quê hương đất nước. Khi đó các em sẽ thấy “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên. Trái lại văn chương là một khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo vừa thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”(Thạch Lam). 
Để làm tốt một bài văn biểu cảm, trước tiên, giáo viên cần định rõ cho các em biết các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài của riêng mình. Sau đó, cần xác định rõ những tình cảm, cảm xúc, những rung động nào là mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình cảm và cảm xúc, suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh vật hay qua một câu chuyện).Rèn các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội dung hơn là độ dài. Đồng thời, cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh ví von, so sánh ngầm  ) thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình.
Điểm quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản thân các em hãy tích cực đọc sách, tích cực tham gia các hoạt động trong nhà trường và ngoài xã hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết. Qua đó, các em cần chú ý rèn luyện cho tâm hồn mình chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương, hờn giận, nhớ nhung. dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn hay tình yêu thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất nước. Đó là cái gốc to, là những chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho cây văn biểu cảm luôn xanh tươi, nở hoa, kết trái. 
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:
Căn cứ kế hoạch năm học 2014- 2015 của nhà trường.
 	Căn cứ điều kiện thực tế tình hình học môn Ngữ văn của lớp( cụ thể là các bài làm văn biểu cảm của học sinh)
 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
 	 Các giải pháp, biện pháp trên luôn có mối quan hệ chặt chẽ, lô gic với nhau và được tổ chức thực hiện một cách linh hoạt. 
 Bên cạnh đó, các giải pháp, biện pháp trên cần được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, Hội cha mẹ học sinh cũng như các bậc cha mẹ học sinh. Nhất là tinh thần trách nhiệm của người giáo viên mới đạt được kết quả như mong muốn.
 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Năm học
Tỉ lệ % trong lớp

Tài liệu đính kèm:

  • docthcs_15_651_2010911.doc