Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên đề giáo dục phát triển vận động ở trường mầm non Văn Tiến - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc

Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên đề giáo dục phát triển vận động ở trường mầm non Văn Tiến - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc

Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện chuyên đề:

Thực hiện nhiệm vụ GDMN năm học 2017 - 2018. Nhà trường xây dựng mục tiêu, kế hoạch giáo dục phát triển vận động vào các hoạt động giáo dục cho trẻ .

- Thông qua các hoạt động giáo dục trong trường mầm non nhằm tăng cường thời lượng vận động cho trẻ.

- Nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển vận động cho trẻ mầm non.

Triển khai cụ thể hóa kế hoạch theo từng ngày, tuần, tháng tới từng giáo viên, tích cực tuyên truyền về giáo dục phát triển vận động cho các bậc phụ huynh song song với việc tham mưu, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương đầu tư thiết bị phục vụ cho chuyên đề. Tiếp tục bồi dưỡng giáo viên kiến thức, kỹ năng phù hợp từng đối tượng, sưu tầm, sáng tác các trò chơi vận động để lồng ghép vào các hoạt động trong ngày nhằm phát huy tối đa tính tích cực hoạt động của trẻ. Thường xuyên kiểm tra giáo viên tổ chức các hoạt động vận động cho trẻ, theo dõi giám sát làm tiêu chí bình xét thi đua hàng tháng đồng thời có biện pháp bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cho giáo viên chuyên môn còn hạn chế.

Biện pháp 3: Tạo môi trường kích thích trẻ tích cực vận động:

Nhà trường phân công giáo viên tạo môi trường ngoài trời và bổ sung thêm đồ dung, đồ chơi ngoài trời với các đồ chơi cho trẻ hoạt động mang tính chất phát triển vận động nhằm luôn đặt ra cho trẻ những thử thách tìm tòi, khám phá trong các hình thức hoạt động phát triển vận động hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tích cực hứng thú tham gia vận động một cách tự nguyện và tự giác.

Môi trường trong lớp: chỉ đạo 100% các nhóm/lớp sắp xếp một khoảng không gian đủ rộng để những trẻ dư cân béo phì tăng cường vận động, những vận động rèn luyện khả năng giữ thăng bằng, phát triển tố chất khéo léo, mạnh mẽ thông qua các thiết kế vận động: Đi thăng bằng trên trên ghế thể dục, ném còn, ném vòng vào chai. Ngoài ra các lớp còn treo các quả bóng ở độ cao thấp khác nhau để trẻ có thể nhảy lên đánh bóng, một vài thùng các tông để trẻ chui qua đường hầm, những hình khối để trẻ có thể tự sắp xếp, leo trèo, bật nhảy

 

docx 25 trang Người đăng Bằng Khánh Ngày đăng 08/01/2025 Lượt xem 110Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Một số biện pháp nâng cao chất lượng chuyên đề giáo dục phát triển vận động ở trường mầm non Văn Tiến - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập.
VD: Khi dạy trẻ “Ném trúng đích”, muốn trẻ nắm vững vận động đó thì giáo viên phải giải thích vào phần cơ bản của bài tập: “Khi các cháu đứng ở tư thế chuẩn bị thì chân, tay phải như thế nào, khi ném tay vung và tư thế chuyển ra sao”. Dần dần ở trẻ hình thành biểu tượng cơ bản về vận động này.
Khi giải thích cho trẻ thì lời giải thích của cô đòi hỏi phải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Nội dung của việc giải thích thay đổi phụ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của từng tiết học, vào đặc điểm cá biệt của trẻ. Giải thích làm tích cực hóa quá trình tư duy của trẻ, giúp trẻ hiểu thấu đáo về kỹ thuật bài tập vận động. 
Giải thích còn hướng sự chú ý của trẻ lên một động tác, thao tác nào đó của bài tập hoặc nhấn mạnh, làm sâu hơn tri giác của trẻ về mặt này hay mặt khác của bài tập đã học:
VD: Bài vận động cơ bản “Bật xa”. Sau khi trẻ bật xa, lúc hạ hai chân xuống đất – tiếp đất, thường trẻ không biết để tay ở tư thế nào, thì giáo viên giải thích thêm cho trẻ.
* Chỉ dẫn:
 Khi chỉ dẫn cho trẻ về bài tập vận động, giáo viên cần nói ngắn gọn, nhằm củng cố kỹ năng, kỹ xảo vận động, tránh trước hoặc sửa sai. Vì vậy khi chỉ dẫn cho trẻ có thể đưa ra trước hoặc trong thời gian trẻ thực hiện bài tập.
Trong trường hợp đầu giáo viên sử dụng chỉ dẫn như là một phương pháp ngăn chặn trước những sai sót có thể xảy ra: 
Ví dụ: “động tác bụng” khi cúi tay chạm ngón chân, thân phải thẳng, thì việc chỉ dẫn của giáo viên tiến hành trước khi thực hiện bài tập là nhắc nhở trẻ khi cúi không khuỵu gối.
Sau khi trẻ thực hiện bài tập giáo viên nhận xét kịp thời về chất lượng thực hiện bài tập, tạo điều kiện làm củng cố thêm biểu tượng của trẻ về những thao tác, giúp trẻ nhận ra những chỗ sai của mình của mình và của bạn để kịp thời sửa đổi.
Lời chỉ dẫn được tiến hành dưới hai hình thức: khẩu lệnh và mệnh lệnh:
Khẩu lệnh là lời chỉ dẫn truyền ra dưới dạng xác định với nội dung chính xác. 
Khi truyền khẩu lệnh: 
Ví dụ: “Nghiêm, bên phải quay, hoặc đi đều, bước” giáo viên phải đứng ở tư thế “đứng nghiêm”, giọng nói của giáo viên phải tự tin, dõng dạc, rõ ràng để tổ chức trẻ, yêu cầu trẻ tập bài tập nhanh nhẹn chính xác.
Khẩu lệnh bao gồm: dự lệnh và động lệnh. Dự lệnh là phần trước khi truyền lệnh, chỉ ra cần vận động như thế nào, lời truyền cần kéo dài.
Ví dụ: “Bên phải”, chữ “phải” cần phải kéo dài.
Động lệnh là phần thực hiện, là lời truyền kéo dài “quay” dứt khoát.
Khi truyền khẩu lệnh và mệnh lệnh thì cường độ giọng nói của giáo viên cần phải phù hợp với khu vực tập luyện, nơi diễn ra việc tập luyện và điều chủ yếu là làm sao cho tất cả trẻ đều nghe rõ và hiểu được việc truyền lệnh của giáo viên. Có như vậy trẻ mới nhận được lệnh và thực hiện đúng, cùng nhau.
Mệnh lệnh là những lời nói do giáo viên tự nghĩ ra: 
VD: Giáo viên nói: “Đi đến cửa sổ, quay lại cầm bóng”, “quay sang bên trái của gậy”
Ở lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé, giáo viên cần sử dụng mệnh lệnh khi trẻ thực hiện bài tập, sau đó dần dần cho trẻ làm quen với khẩu lệnh.
Khi truyền khẩu lệnh và mệnh lệnh giáo viên cần chú ý đến cường độ giọng nói phải phù hợp với khu vực tập luyện, nơi diễn ra việc luyện tập. Chú ý khi truyền khẩu lệnh và mệnh lệnh làm sao cho tất cả các trẻ đều nghe rõ và hiểu được việc truyền lệnh của giáo viên. Có như vậy, trẻ mới nhận được lệnh và thực hiện đúng, cùng nhau.
Nếu giáo viên cho trẻ tập bài tập vận động theo nhạc, thì phần dự lệnh của khẩu lệnh phải bằng lời nói, còn động lệnh, tín hiệu để thực hiện sẽ sử dụng hợp âm đầu tiên.
c. Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại là sự hỏi và trả lời giữa giáo viên và trẻ trước hoặc sau khi tập bài tập vận động.
Khi dạy trẻ giáo viên sử dụng những câu hỏi để hỏi trẻ sẽ kích thích chúng đến quá trình quan sát, tích cực hoá tư duy và lời nói, giúp cho việc củng cố, trẻ sẽ khắc sâu thêm biểu tượng về vận động, trẻ sẽ hứng thú với bài tập hơn, và đánh giá chính xác việc thực hiện bài tập của mình và của bạn.
Khi bắt đầu vào buổi tập giáo viên có thể hỏi trẻ là ai biết thực hiện vận động, nhớ cách chơi của trò chơi vận động. 
Ví dụ: Trước khi vào phần chơi “kéo co”, giáo viên có thể hỏi trẻ như: “Bạn nào nhắc lại cho cô cách chơi của trò chơi kéo co?”
Trong quá trình tập luyện, giáo viên có thể hỏi trẻ là bạn tập như vậy có đúng không? Những câu hỏi này giúp trẻ nhận ra những sai sót.
Trước khi tập giáo viên nên dùng những câu hỏi hướng đến mục đích sắp thực hiện.
Đàm thoại dùng để kiểm tra lại những biểu tượng đã có ở trẻ, sau khi cho trẻ tập một bài mới giáo viên có thể đặt câu hỏi như: bạn thực hiện như vậy có đúng không? Có những dụng cụ gì?...
đ. Phương pháp kể chuyện:
Những câu chuyện do giáo viên tự nghĩ ra hoặc các mẩu chuyện trong sách, báo, tranh, truyệnđược sử dụng để kích thích trẻ sự hứng thú đến việc luyện tập vận động, thích làm quen với kỹ thuật và thực hiện chúng.
Nội dung câu chuyện có thể sử dụng trực tiếp trong buổi luyện tập, hoặc có thể xuyên suốt bài tập hoặc giáo viên có thể sử dụng câu chuyện để dẫn dắt vào bài tập để thu hút trẻ vào bài tập một cách dễ dàng hơn.
Ví dụ: Bài tập cơ bản là “Bật liên tục qua 5 vòng”, ở trẻ 4 – 5 tuổi. Cô giáo có thể dẫn dắt trẻ như: Hôm nay, cô và các con cùng chơi làm “Gia đình Thỏ”, cô là Thỏ mẹ các con là Thỏ con nhé!
- Các chú Thỏ con yêu quý! Hôm nay Thỏ mẹ kể chuyện về một chú Thỏ tài ba cho các con nghe nhé! (Cô kể tóm tắt câu chuyện “Chú Thỏ tinh khôn” kết hợp cho trẻ xem trình chiếu.
- Các con thấy chú Thỏ trong câu chuyện như thế nào? 
- Muốn thông minh và khỏe mạnh như các chú Thỏ, các con phải làm gì? Bây giờ các chú Thỏ con cùng Thỏ mẹ đi chơi nhé!
- Cho các chú Thỏ đi xung quanh vòng qua các cây, hoa, kết hợp một vài kiểu đi kiễng gót, đi nhanh, đi chậm, đi bằng mũi chân.....(bài tập “khởi động”).
Hay giáo viên kể về một chuyến đi đến nơi nghỉ mát, về cuộc dạo chơi trong rừngcòn trẻ thực hiện những bài tập phù hợp với câu chuyện trong buổi tập luyện, giáo viên cũng có thể sử dụng thơ, ca, câu đốkể cho trẻ nghe và đồng thời kết hợp với động tác hay trò chơi vận động
Giáo viên có thể kể cho trẻ mẩu chuyện “Chú gà trống”, giáo viên nói “có một chú gà trống bừng tỉnh dậy cất tiếng gáy ò ó o” trẻ cho tay lên miệng và bắt chước tiếng gà gáy, giáo viên nói tiếp “sau đó chú ra vườn bới đất tìm mồi” trẻ làm động tác đi, tay vẫy vẫy bới đất.
Kể chuyện có tác dụng làm cho hình thức và nội dung luyện tập trở nên phong phú, gây hứng thú ở trẻ đến bài tập.
e. Phương pháp thực hành:
* Luyện tập:
Khi trẻ thực hiện bài tập cô cần đứng quan sát trẻ tập luyện, giáo viên nên bao quát chung cả lớp, và cần sửa sai ngay cho những cháu chưa tập đúng. Giáo viên nên đến tận nơi nhắc trẻ nhẹ nhàng, tránh gây sự chú ý đền trẻ khác, mất tập trung vào việc luyện tập.
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thường khó phân tích động tác ra từng đoạn mà chỉ có khả năng tiếp thu các động tác đơn giản liên tục thành một khối. Trẻ mẫu giáo bé chỉ thực hiện tốt những động tác mà trẻ thực hiện tốt trong cuộc sống hàng ngày, phù hợp với sức khỏe của mình. Những động tác tự nhiên đơn giản đó của trẻ còn rất xa mới đạt được mức độ hoàn chỉnh. Cho nên, trẻ thực hiện động tác thường không chính xác.
Sự kết hợp chi tiết của động tác còn chưa hợp lý, tốc độ động tác thường chậm. Vì vậy giáo viên nên dạy trẻ thực hiện động tác chung nhất, dạy trẻ chú ý đến giai đoạn chủ yếu nhất của động tác, phù hợp với yêu cầu đối với lứa tuổi trẻ.
Ví dụ 1: Khi dạy trẻ vận động đi, chỉ có thể yêu cầu đối với mẫu giáo bé là đi thẳng người, không được cúi đầu, tay vung tự nhiên. Không thể yêu cầu với mẫu giáo bé là phải chú ý đến từng chi tiết của động tác như yêu cầu trẻ phải kết hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận của cơ thể, không nên cho rằng trẻ nhỏ làm như vậy là sai. Song yêu cầu đối với trẻ mẫu giáo lớn lại phải dạy trẻ và yêu cầu làm chính xác các chi tiết của các động tác đó, như khi đi phải chính xác, nhịp nhàng giữ vững tư thế, kết hợp các động tác chân và tay hợp lý.
Trong quá trình dạy trẻ giáo viên cần lưu ý: Dạy động tác hoàn chỉnh ngay cho trẻ, thì trẻ dễ dàng nắm được toàn bộ hệ thống của động tác, không làm ảnh hưởng đến toàn bộ kết cấu của động tác.
g. Phương pháp trò chơi:
Biện pháp trò chơi có tác dụng nhằm gây hứng thú cho trẻ với bài học, trẻ thực hiện nhiều lần mà không nhàm chán, đánh giá được tương đối khách quan kết quả vận động của trẻ. Biện pháp này tiến hành dưới hai dạng: Đưa yếu tố chơi vào buổi tập: 
Ví dụ: “đi đều”: hành quân như các chú bộ đội, bài tập “vươn thở”: Cô có thể cho trẻ bắt chước tiếng gà gáy, thổi bóng, ngửi hoa, bài tập “bò”: bò như chuột, động tác “nhảy” nhảy qua rãnh nước, nhảy như thỏ.
Giáo viên sử dụng các trò chơi vận động để tiến hành 1 bài tập. Khi tham gia các trò chơi trẻ vận động tích cực hơn, tự nhiên, thoải mái, có tác dụng củng cố và rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động phát triển các tố chất vận động khi thực hiện các vận động, thao tác trong trò chơi.
Khi giáo viên sử dụng các bài thơ, ca về nội dung phải ngắn gọn, dễ thuộc, vui nhộn, giáo viên cần cho trẻ đọc trước đó một, hai ngày hoặc một tuần trước khi cho trẻ chơi. Khi tổ chức cho trẻ chơi cần xác định điểm chơi, những quy tắc, cách chơi, sự phân thắng thua trong khi chơi vẫn phải đảm bảo.
Hoạt động trò chơi mang tính tổng hợp và được xây dựng kết hợp với những kỹ năng vận động khác nhau như: chạy, nhảy, bò...Trong khi chơi trẻ có khả năng giải quyết bài tập mới xuất hiện một cách sáng tạo, thể hiện tính độc lập, nhanh trí trong việc lựa chọn cách thức vận động, những tình huống biến đổi bất ngờ trong quá trình chơi, sẽ kích thích thực hiện nhanh hơn, khéo léo hơn. Chính vì vậy trong quá trình trẻ chơi cô giáo cần quan sát, bao quát trẻ để có thể khuyến khích, giúp đỡ trẻ và xử lý các tình huống có thể xảy ra trong khi trẻ chơi một cách kịp thời. 
  h. Phương pháp thi đua:
Nét nổi bật của biện pháp thi đua là sự đua tài, đọ sức, giành vị trí vô địch hoặc để đạt thành tích cao. Biện pháp thi đua đòi hỏi yêu cầu cao, đặc biệt đối với sức mạnh thể chất và tinh thần của người tập, tạo nên sự căng thẳng về tâm lý rất lớn do yếu tố ganh đua trong quá trình thi đấ

Tài liệu đính kèm:

  • docxbao_cao_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_chuyen_de_giao.docx