Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7

Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7

Mục tiêu cần đạt: Giúp hs

1. Kiến thức: Hiểu về ý nghĩa văn hoá, xã hội của ca Huế. Từ đó có thái độ và hành động tích cực góp phần bảo tồn, phát triển di sản văn hoá dân tộc đặc sắc và độc đáo này.

- Khái niệm thể loại bút kí. Giá trị văn hoá, nghệ thuật của ca Huế. Vẻ đẹp của con người xứ Huế.

2. Kĩ năng: Đọc- hiểu văn bản nhật dụng viết về di sản văn hoá dân tộc, phân tích văn bản nhật dụng theo thể loại thuyết minh.

 Tích hợp: Kiến thức tập làm văn để viết bài thuyết minh.

3. Thái độ: Yêu quý, trân trọng tự hào về nét đẹp của xứ Huế, gợi lòng yêu quê hương đất nước. Yêu quý, trân trọng, tự hào về nét đẹp của xứ Huế.

- Có ý thức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc

 

doc 31 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 903Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vài kinh nghiệm về việc dạy văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung khi dạy các văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 7: 
 2.1) Trong chương trình Ngữ văn 7 gồm 4 văn bản nhật dụng sâu đây:
Cổng trường mở ra Của Lí Lan.
Mẹ tôi của Et-môn-đô-đơ A-mi-xi trong Những tấm lòng cao cả.
Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài.
Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.
 	 Hai văn bản Cổng trường mở ra Của Lí Lan và Mẹ tôi của Et-môn-đô-đơ A-mi-xi nhằm khai thác nội dung người mẹ và nhà trường. Văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài thuộc đề tài quyền trẻ em. Văn bản cuối là một bài báo giới thiệu một sản phẩm văn hóa nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh.
2.2. Nắm chắc đặc điểm và ý nghĩa của các nội dung đặt ra trong mỗi văn bản nhật dụng để hướng dẫn học sinh tự liên hệ, rút ra được bài học cho chính bản thân mình. Chẳng hạn:
 	2.2.1 Cổng trường mở ra là một bài kí được trích từ báo là một bài kí được trích từ báo Yêu trẻ – thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Lí Lan. Bài văn ghi lại tâm trạng của một người mẹ trong đêm chuẩn bị cho con trước ngày khai trường vào lớp một. Không có sự việc, không có cốt truyện, chủ yếu là tâm trạng hồi hộp, phấp phỏng đón chờ ngày khai trường. Người mẹ không ngủ, phần vì lo chuẩn bị cho con, nhưng phần vì cả tuổi thơ áo trắng đến trường của chính mình sống dậy. “Cứ nhắm mắt lại là mẹ dường như nghe tiếng đọc trầm bổng : “Hằng năm cứ vào cuối thu Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”
Khi dạy bài này, GV chủ yếu hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích tâm trạng của người mẹ là chính. Qua tâm trạng này mà thấy được tình cản và tấm lòng của bà mẹ trước ngày con vào lớp một. Từ đó mà HS liên hệ với chính bản thân mình.
 	 2.2.2 Mẹ tôi là một bài văn mang tính truyện nhưng lại dưới dạng một bức thư của nhà văn Ét-môn-đô-đơ A-mi-xi( Nhà văn I-ta-li-a). có chuyện xãy ra nhưng phần chính vẫn là tâm trạng và những suy nghĩ của người bố qua bức thư gửi cho con – người đã phạm lỗi. Qua bức thư, người đọc thấm thía công lao và tình cảm của người mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi người con. Do tập trung đề cao người mẹ và nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục, có những chỗ tác giả diễn đạt khá cực đoan, ví dụ; “ Bố rất yêu con, con ạ, con là niềm hi vọng tha thiết nhất của đời bố, nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”, trong quá trình phân tích nếu để nguyên như thế hoặc không khéo léo học sinh cảm thấy nặng nề và có thể hiểu nhầm tấm lòng của người cha rằng yêu vợ hơn con nên nười giáo viên phải phân tích, bình luận và chỉ rõ cho các em thấy tình cảm và sự nghiêm khắc của người cha trong việc giáo dục con.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu và phân tích văn bản, từ đó mà rút ra nội dung và ý nghĩa của bài học, tự liên hệ và kiểm điểm về những thái độ và tình cảm của chính bản thân đối với bố mẹ mình.
2.2.3 Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài tuy là một truyên ngắn, nhưng khi vào sách Ngữ văn, văn bản này vẫn chủ yếu được khai thác theo tinh thần của một văn bản nhật dụng. Đây là văn bản thể hiện vấn đề quyền trẻ em, một trong những nội dung chính của mảng văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn 7. Trẻ em có rất nhiều quyền. Điều đó đã được ghi trong công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc 1989. Tuy vậy đề tài về quyền trẻ em thì không phải nhiều. Các tác giả thường khai thác ở một số vấn đề như: Nỗi khổ về cuộc sống vật chất và nỗi đau về tinh thần. Một trong những nỗi đau về tinh thần đó là nỗi đau sống thiếu cha, thiếu mẹ. Cha mẹ không may mất đi là một nỗi đau đã đành. Cha mẹ vẫn sống mà con cái vẫn bị chia lìa xa cách mới là điều đáng nói. Nỗi đau này do chính con người tạo nên cho bản thân và con cái mình. Truyện Cuộc chia tay của những con búp bê viết về vấn đề này nhưng qua câu chuyện người đọc còn thấy được những tình cảm anh em trong sáng, thân thiết, sự gắn bó máu thịt và tấm lòng nhân hậu, vị tha của những em bé chẳng may rơi vào cảch hạnh phúc gia đình tan vỡ. Truyện ngắn này đã được giải nhì trong cuộc thi thơ văn viết về quyền trẻ em do viện khoa học giáo dục và tổ chức cứu trợ trẻ em Thuỵ Điển tổ chức năm 1992. Khi đọc văn bản này, bản thân tôi cũng hơi băn khoăn là liệu vấn đề khá tế nhị và phức tạp của người lớn (chuyện li hôn) mà cho HS lớp 7 biết như thế có quá sớm không? Sau khi trao đổi với đồng nghiệp tôi mới nhận thấy việc dạy văn bản này cho lứa tuổi này không có gì đáng lo lắng vì:
 	- Thứ nhất, vấn đề hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, bố mẹ li hôn, con cái chịu nhiều đau đớn, thua thiệt, là một sự thật không nên né tránh trong xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng ( sách, báo, phát thanh, truyền hình,)cũng thường xuyên khai thác vấn đề này. Vì thế đây không còn là câu “chuyện kín” cần phải giữ gìn, “che đậy” với các em.
 	 - Thứ hai, nội dung chính của truyện Cuộc chia tay của những con búp bê không tập trung khai thác và miêu tả trực tiếp cảnh đổ vỡ giữa cha mẹ (như xô xát, mắng chửi, đập phá,) mà chủ yếu tập trung khắc hoạ những tình cảm và tấm lòng vị tha, nhân hậu, trong sáng và cao đẹp của hai em bé. Chính điều này có ý nghĩa giáo dục không chỉ với các em mà cho cả những người đã là cha, là mẹ. Cũng chính điều này cùng với cách kể chuyện chân thật đã tạo cho truyện một sức truyền cảm khá mạnh, khiến cả người dạy lẫn người học rất xúc động. Do đó khi dạy, GV cần tập trung khai thác nội dung này là chính.
2.2.4 Ca Huế trên sông Hương của Hà Anh Minh nhằm giới thiệu những sản phẩm văn hố truyền thống của dân tộc. Bài văn viết về một sản phẩm văn hố nổi tiếng của một địa danh nổi tiếng với một con sông nổi tiếng: Ca Huế trên sông Hương. Đây không phải là một truyện ngắn, một sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí, ghi chép một nét sinh hoạt văn hóa: Ca Huế trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế; giới thiệu những hiểu biết của tác giả về nuồn gốc, về sự phong phú của cac làn điệu dân ca Huế.
 	Bài văn vừa tả cảnh ca Huế trong một đêm trăng trên dòng sông Hương thơ mộng, vừa giới thiệu những làn điệu dân ca Huế, vì thế không thể chia bố cục một cách rõ ràng. Tuy vậy GV có thể tập trung khai thác mấy nội dung cơ bản sau:
Vẻ đẹp phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca Huế ( thể hiện qua tên gọi các làn điệu, qua nhạc cụ và cách chơi)
Vẻ đẹp của cảnh ca Huế trong đêm trăng thơ mộng trên dòng sông Hương.
Nguồn gốc của một số làn điệu ca Huế.
 	 Có thể do nội dung và tính chất của bài viết mà tác giả nhắc tới rất nhiều tên các làn điệu ca Huế, nhạc cụ và các “ngón đàn” của ca công. Khi học, GV không nên bắt các em phải nhớ, phải hiểu hết các chú thích. Nên chốt lại vấn đề bằng việc khái quát: Ca Huế đa dạng và phong phú đến nỗi chúng ta khó mà nhớ hết được tên các làn điệu, tên các nhạc cụ và các ngón đàn của ca công.
Bài học này nằm gần với phần chương trình Ngữ văn địa phương(tuần 29) và hoạt động Ngữ văn (tuần 31) vì thế GV cần liên hệ nội dung bài học này với các nội dung sẽ học trong các tuần đó. Ví dụ:
Từ bài văn đề nghị các em liên hệ với các làn điệu dân ca nói riêng và các sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung của quê hương mình.
Thử sưu tầm và giới thiệu một băng, đĩa nhạc có ca Huế, hoặc các bài hát hiện đại phỏng theo những điệu ca Huế.
Thử tập hát một vài làn điệu ca Huế hoặc giới thiệu một làn điệu dân ca của quê hương mình.
Viết bài tập tìm hiểu về các vùng dân ca nổi tiếng của dân tộc như: dân ca quan họ Bắc Ninh, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Nam bộ, dân ca Liên khu Năm,
3 / Những lưu ý về phương pháp (phương pháp chủ động) khi dạy văn bản nhật dụng:
	Tinh thần chung của PPDH mới là: Tôn trọng HS, tránh áp đặt, linh hoạt, chủ động và sáng tạo. HS tự mình tiếp xúc vơíù các văn bản, tự mình suy nghĩ khám phá cái hay, cái độc đáo của tác phẩm dưới sự hướng dẫn của thầy. Do đó GV cần lưu ý:
3.1/ Xác định mục tiêu dạy học
Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc- hiểu là việc đọc nghiền ngẫm, phân tích, cảm thụ những vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, để từ đó hiểu được những khái quát về đời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự mình khám phá và rung động về ý nghĩa đời sống và giá trị thẫm mĩ của tác phẩm. Đó chính là mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nghệ thuật. Còn đối với văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ nhấn vào nội dung tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết, mang tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản.Như vậy việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng phải bắt đầu từ sự rõ ràng trong việc phân loại văn bản.
	3.2/ GV cần biết cách đặt những câu hỏi mở, khuyến khích HS suy nghĩ, nghe HS trả lời một cách tin cậy và thân ái. Cần huy động mọi HS ở các trình độ khác nhau tham gia vào việc trả lời câu hỏi và đóng góp ý kiến. Ví dụ: Khi dạy văn bản Cổng trường mở ra, GV đặt câu hỏi “ Kết thúc bài văn bà mẹ nói: “ Bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Em đã trải qua thời lớp Một, bây giờ em hiểu thế giới kì diệu đó là những gì?
 	 Đây là câu hỏi mở, nhằm làm nổi bật lên vai trò và vị trí của nhà trường đối với cuộc đời mỗi con người. HS có thể trả lời theo cách riêng của mình. GV chỉ nên định hướng, gợi mở một vài điểm thật cần thiết như : Nhà trường đã mang lại cho em những gì về tri thức, về tình cảm, tư tưởng, đạo lí, về tình bạn, tình thầy trò,?
	3.2/ Sử dụng không gian nhà trường, lớp học, dụng cụ học tập như bảng phụ một cách sáng tạo để tổ chức cho HS thảo luận cũng như tiến hành các hoạt động khác theo nhóm. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Mẹ tôi”, GV đặt câu hỏi: Theo em, tại sao người bố không nói trực tiếp với En-ri-cô mà lại viết thư? 
 	Câu hỏi này đòi hỏi HS phải suy luận nhiều. Có thể có nhiều cách trả lời khác nhau nên các em cần bàn bạc và thống nhất ý kiến trong nhóm. Mỗi nhóm lại có thể có mỗi cách suy luận khác nhau, miễn là hợp lí. Tổng hợp ý của các nhóm sẽ là: Tình cảm sâu sắc thường tế nhị và kín đáo nhiều khi không nói trực tiếp được. Hơn nữa viết thư là chỉ nói riêng cho người mắc lỗi biết, vừa giữ được sự kín đáo, tế nhị, vừa không làm người mắc lỗi mất đi lòng tự trọng. Đây chính là bài học sâu sắc về cách ứng xử trong cuộc sống gia đình cũng như trong nhà trường và xã hội.
	3.3/ Việc lớp học trở nên ồn ào hơn mỗi khi thảo luận cần được hiểu là dấu hiệu của hoạt động học tập tích cực chứ không có nghĩa là kỉ luật lớp học lỏng lẻo. Tránh kiểu “ im lặng nhà thờ”.
	3.4/ Lên kế hoạch và chuẩn bị bài giảng sao cho có thể kết hợp các kiến thức của bài học với các ví dụ tương ứng, sử dụng những kiến thức liên quan đến tình hình địa phương nơi trường đang đóng cũng như liên hệ với thực tế cuộc sống hiện nay một cách linh hoạt có tác dụng giúp HS tự rút ra bài học cho bản thân.
 3.5/ Lấy SGK làm chuẩn, cung cấp kiến thức không nên qua nặng nề, ôm đồm làm phức tạp hóa các vấn đề vốn đơn giản. Biết mười để dạy một là một tư tưởng đúng, nhất là dạy đúng cái “một” đó. Không nên biết mười rồi giới thiệu luôn cả mười, có gì thì các thầy cô đều muốn nói hết cho HS. Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng “quá tải” không chỉ đối với HS mà cả đối với GV. Hãy để cho HS tự tìm tòi, phát hiện với lượng kiến thức vừa sức của các em.
	3.6/ Chú ý tính phân hóa trong HS. Đưa ra các bài tập phải đa dạng, có bài tập mở rộng đối với HS khá và cũng có bài tập đặc biệt dành cho HS yếu kém. Ví dụ: Khi dạy bài Cuộc chia tay của những con búp bê, GV đặt câu hỏi : Lời nói và hành động của Thuỷ khi thấy anh chia hai con búp bê “Vệ Sĩ” và “Em Nhỏ” ra hai bên có gì mâu thuẩn? Theo em có cách nào để giải quyết mâu thuẩn ấy không? Kết thúc truyện Thuỷ đã lựa chọn cách giải quyết như thế nào? Chi tiết này gợi lên trong em những suy nghĩ và tình cảm như thế nào?
 	Câu hỏi này buộc HS đi sâu vào phân tích một sự việc (hành động) của nhân vật chính, từ đó thấy được nội dung sâu sắc của truyện. Đây là câu hỏi khó, GV có thể gợi ý và yêu cầu những HS khá giỏi trong lớp trình bày. Trước khi chỉ cho các em thấy được vấn đề:
Mâu thuẫn ở chỗ: một mặt Thuỷ rất giận dữ, không muốn chia rẽ hai con búp bê, nhưng mặt khác em lại rất thương Thành, sợ đêm đêm không có con vệ sĩ canh giấc ngủ cho anh, nên em rất bối rối sau khi đã “tru tréo lên giận dữ’.
Đưa ra tình huống này, nhằm gợi lên ở các em một suy nghĩ: Muốn giải quyết mâu thuẫn này, chỉ có cách gia đình Thuỷ và Thành phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay.
Cuối truyện, Thuỷ lựa chọn cách để lại con Em Nhỏ gợi lên trong lòng người đọc lòng thương cảm đối với Thuỷ, thương cảm một em gái giàu lòng vị tha, thương anh, thương cả những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, mình đành chịu thiệt thòi để anh luôn có con vệ sĩ gác cho ngủ đêm đêm. Chi tiết này cũng khiến người đọc thấy sự chia tay của hai con Em Nhỏ và Vệ Sĩ là rất vô lí, là không nên có.
 3.7/ Cần tôn trọng những nhận xét, đánh giá của HS phần nào đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận rằng ý kiến của chúng ta không phải khi nào cũng đúng. Người GV khi dạy kiểu bài này chủ yếu là nêu vấn đề, gợi mở vấn đề để HS tìm tòi. Không áp đặt kết quả có sẵn và vì thế kết quả phân tích, hiểu và cảm thụ của HS có thể không trùng và không nhất thiết phải đúng với những gì thầy cô hiểu và cảm nhận về tác phẩm đó. Một ví dụ: Khi giảng văn bản này ở lớp 7A7, tôi đã nghĩ là chỉ rút ra bài học: Người lớn và xã hội hãy chăm lo và bảo vệ hạnh phúc của trẻ em. không thể để trẻ em rơi vào tình cảnh bất hạnh. Trong khi chính các em rút ra rất nhiều bài học tự nhiên, cảm động, không kém phần sâu sắc:
	- Anh em phải thương yêu nhau.
	- Cha mẹ không nên li hôn.
	- Không được chia rẽ tình cảm anh em, phải để cho anh em ruột thịt được sống bên nhau dù bất cứ lí do gì.
	- Người lớn phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của trẻ con trước khi quyết định li hôn.
	- Không được bắt trẻ em nghỉ học.
 Từ một câu chuyện cảm động đã gợi lên trong các em rất nhiều các suy nghĩ đáng được trân trọng. Chẳng lẽ chúng ta buộc các em chỉ được rút ra bài học mà cô đã ghi trên bảng.	
III. BÀI SOẠN MẪU:	
TIẾT 113- Văn bản: CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG
A/ Mục tiêu cần đạt: Giúp hs
1. Kiến thức: Hiểu về ý nghĩa văn hoá, xã hội của ca Huế. Từ đó có thái độ và hành động tích cực góp phần bảo tồn, phát triển di sản văn hoá dân tộc đặc sắc và độc đáo này.
- Khái niệm thể loại bút kí. Giá trị văn hoá, nghệ thuật của ca Huế. Vẻ đẹp của con người xứ Huế.
2. Kĩ năng: Đọc- hiểu văn bản nhật dụng viết về di sản văn hoá dân tộc, phân tích văn bản nhật dụng theo thể loại thuyết minh.
	Tích hợp: Kiến thức tập làm văn để viết bài thuyết minh.
3. Thái độ: Yêu quý, trân trọng tự hào về nét đẹp của xứ Huế, gợi lòng yêu quê hương đất nước. Yêu quý, trân trọng, tự hào về nét đẹp của xứ Huế.
- Có ý thức gìn giữ di sản văn hoá dân tộc
B/ Chuẩn bị:
	GV: SGK+ SGV+ Bài soạn, tranh ảnh+ máy chiếu( Ti vi kết nối máy tính)
	HS: Đọc, soạn bài theo hệ thống câu hỏi
C/ Tiến trình lên lớp:
	1. Ổn định lớp: Nề nếp+ sĩ số
	2. Bài cũ: ?Qua truyện ngắn “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” em hiểu gì về hai nhân vật này?
- Va-ren: kẻ phản bội, tên chính khách làm trò chính trị, kẻ ruồng bỏ giai cấp, tên lừa dối trắng trợn, trơ tráo và vô liêm sĩ.
- Phan Bội Châu: bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xã thân được tôn sùng, con người đáng tôn kính, ngưỡng mộ.
	3. Bài mới:	* HOẠT ĐỘNG I: GV giới thiệu bài
	Ỏ lớp 6, các em đã được học một số văn bản nhật dụng với nhiều đề tài khác nhau. Nếu Động Phong Nha là một danh lam thắng cảnh, Cầu Long Biên là một di tích lịch sử thì ca Huế trên sông Hương lại giúp chúng ta hình dung một cách cụ thể một sinh hoạt văn hoá rất đặc trưng, nổi bật ở xứ Huế mộng mơ. Hôm nay chúng ta sẽ hiểu thêm vẻ đẹp của Huế qua một đên ca Huế trên sông Hương.
	* HOẠT ĐỘNG II: Nội dung bài học
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY- TRÒ
NỘI DUNG
* Hướng dẫn tìm hiểu chung
GV: Gọi HS đọc chú thích * SGK
? Văn bản do ai sáng tác.
GV: Hướng dẫn hs đọc(Chậm rãi, rõ ràng, mạch lạc, lưu ý những câu đặc biệt)
GV đọc mẫu một đoạn, gọi hs đọc tiếp sau đó sữa chữa, uốn nắn những chổ đọc sai, chưa chuẩn.
HS đọc
? Em biết gì về cố đô Huế? Hãy nêu một vài đặc điểm tiêu biểu của xứ Huế mà em biết?
(Về vị trí địa lí: Huế thuộc miền trung Việt Nam, phía nam giáo Đà Nẵng, phía bắc giáp Quảng Trị.
Về đặc điểm lịch sử: Huế (Phú Xuân)từng là kinh đô của nhà Nguyễn hơn trăm năm(1802- 1945)
- Về danh lam thắng cảnh: Thiên nhiên có sông Hương, núi Ngự, có nhiều di tích lịch sử: thành nội, lăng tẩm của các triều vua nhà Nguyễn, đền đài, chùa chiền, trong đó có chùa Thiên Mụ nổi tiếng.
Về sản phẩm vật chất và sản phẩm văn hoá- tinh thần: Nhiều món ăn, nhiều thứ bánh kẹo mang màu sắc Huế như mè xửng, kẹo cau... ó nón bài thơ, có nhiều điệu hò, làn điệu dân ca nổi tiếng.
Nhắc đến Huế người ta thường nhắc đến sông Hương núi Ngự, đến chùa Thiên mụ, đến phú Văn Lâu và các điệu hò, ca Huế thể hiệ rõ nét tâm hồn của con người xứ Huế.)
? Dựa vào mục chú thích * nêu những hiểu biết về ca Huế? (Là một hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống của cố đô Huế. Người nghe và người hát cùng ngồi thuyền đi trên sông Hương một trong những di sản văn hoá đáng tự hào của người dân xứ Huế.)
? Bài văn thuộc kiểu văn bản nào?
? Em hiểu bút kí là gì?
? Nội dung của văn bản nhật dụng là những vấn đề thời sự, gần gũi đang diễn ra trong cuộc sống hôm nay. Vậy đâu là là nội dung của văn bản nhật dụng này?
(Phản ánh một nét đẹp của văn hoá truyền thống cố đô Huế, đó là ca Huế trên sông Hương)
GV: Đây không phải là một truyện ngắn một sáng tác có tính hư cấu mà chỉ là một bút kí ghi chép lại một sinh hoạt văn hoá: Dân ca Huế trên sông Hương. Qua cảnh sinh hoạt này mà giới thiệu những vẻ đẹp của ca cảnh Huế, giới thiệu những hiểu biết của tác giả về nguồn gốc, sự phong phú của các làn điệu dân ca Huế.
? Văn bản có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung của từng phần?
HS: trả lời
GV: Đây là văn bản nhật dụng kết hợp nhiều phương thức như: Nghị luận, miêu tả, biểu cảm
P1: Dùng phương thức nghị luận, chứng minh
P2: kết hợp miêu tả với biểu cảm
* Hướng dẫn tìm hiểu chi tiết
HS theo dõi đoạn đầu
?Hãy thống kê các điệu ca Huế và đặc điểm của nó?
HS dựa vào bài trả lời
? Quá trình miêu tả, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì
HS: Liệt kê(GV tích hợp)
? Trong bài tác giả có nhắc đến những nhạc cụ nào?
HS trả lời
GV cho hs xem tranh về các nhạc cụ
 Đàn tì bà đàn tranh đàn nhị
 đàn bầu sáo đàn thập lục
 Cặp sanh đàn nguyệt
? Trong văn bản có những bản đàn nào được nhắc đến?
HS trả lời – GV chốt ý
GV yêu cầu hs đọc từ: Không gian yên tĩnh-> hồn người.
? Tìm những từ ngữ miêu tả nghệ thuật sử dụng nhạc cụ của các nhạc công?
-> Nhân, mổ, vổ, vả, bấm, day, chớp, búng, phi, rãi.
? Phép nghệ thuật nào được sử dụng ở đây?
-> Liệt kê
? Qua đoạn trích em có nhận xét gì về nghệ thuật biểu diễn của họ?
* HS quan sát tranh và cho biết bức tranh minh hoạ cho nội dung nào?
 ? Chi tiết nào miêu tả cảnh đêm trăng nghe ca Huế trên sông Hương?
Đêm thành phố-> hồn người
* Thảo luận nhóm bàn
? Khung cảnh và sân khấu của buổi ca Huế hiện lên độc đáo như thế nào về thời gian, không gian?
- Thời gian: Đêm khi thành phố lên đèn như sao sa. Trăng lên, đến khi gà gáy bên làng Thọ Cương, cùng tiếng chuông chùa Thiên Mụ gọi năm canh
- Không gian: Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu... màn sương dày dần lên... thơ mộng.
GV: cho hs xem cảnh sân khấu buổi ca Huế.
? Cảnh đêm trăng trên sông Hương như thế nào?
? Theo em có nét gì đặc sắc trong cách thưởng thức ca Huế? Cách nghe ca Huế trong bài có gì độc đáo(khác với cách nghe qua băng ghi âm hoặc xem băng hình)
GV hướng dẫn rút ra kết luận.
- Đờn ca trên sông, dưới trăng. Quang cảnh sông nước đẹp, huyền ảo và thơ mộng.
- Nghe và nhìn trực tiếp các ca công: cách ăn mặc, cách chơi đàn, các nhạc cụ, các ca thi cất lời.
GVB: Người diễn xướng và người thưởng thức đồng hiện, gắn bó với nhau, cận kề nhau thân mật như người nhà. Đến thưởng thức ca Huế là lúc mọi vướng bận, bộn bề công việc trong ngày đã hết, là lúc tâm hồn con người thảnh thơi.
GV: gọi hs đọc thầm từ Ca Huế-> quyến rũ
? Vậy ca Huế được hình thành từ đâu?
? Tác giả nhận xét gì về sự hình thàn

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN - Sương.doc