SKKN Một số biện pháp giáo dục đạo đức học sinh theo hướng giáo dục kỉ luật tích cực ở lớp 12A5 trường Trung học Phổ thông Tôn Đức Thắng năm học 2016-2017

SKKN Một số biện pháp giáo dục đạo đức học sinh theo hướng giáo dục kỉ luật tích cực ở lớp 12A5 trường Trung học Phổ thông Tôn Đức Thắng năm học 2016-2017

Nội dung:

Nội quy nhà trường là một hệ thống những quy định nhất định được dùng để điều chỉnh hành vi của học sinh và duy trì trật tự trường học. Những quy định trong nội quy nhà trường bào gồm những chuẩn mực quy định về trang phục, giờ giấc cũng như hành vi giao tiếp và đạo đức làm việc. Nội quy học sinh thường được thực hiện bằng những hình thức kỉ luật khi có sai phạm trong hành vi.

Mục đích chính của nội quy học sinh là tạo ra môi trường học tập an toàn và vui vẻ trong lớp học. Nội quy là một phần cần thiết của cuộc sống học đường và các biện pháp nhằm duy trì nội quy không phải lúc nào cũng thành công.

Vì vậy để xây dựng được nội quy lớp học và thực hiện nội quy một cách dễ dàng áp dụng, giáo viên chủ nhiệm cùng với học sinh xây dựng nội quy của lớp học dựa trên nội quy của nhà trường và Điều lệ trường THTP.

* Cách thức thực hiện:

Giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh tham gia xây dựng nội quy lớp học. Việc tham gia xây dựng nội quy của chính các em là biện pháp nhằm nhấn mạnh và mang ý nghĩa quan trọng của việc cho các em tham gia vòa quá trình ra quyết định trong lớp học. Để xây dựng được nội quy giáo viên cần đình hướng theo các bước sau:

- Bước 1: Giáo viên chủ nhiệm giới thiệu mục đích, nội dung tiết sinh hoạt xây dựng nội quy của lớp.

- Bước 2: Học sinh chia sẻ, đưa ra nguyện vọng của mình đối với một nội quy lớp học.

- Bước 3: Học sinh thảo luận nhóm theo các câu hỏi mà giáo viên đặt ra.

- Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận.

- Bước 5: Giáo viên hướng dẫn tổng hợp, chọn lựa những nội qui, quy định phù hợp với tình hình thực tế của lớp và hoàn thiện Bản nội quy lớp học của lớp.

 

doc 23 trang Người đăng thuquynh91 Lượt xem 867Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục đạo đức học sinh theo hướng giáo dục kỉ luật tích cực ở lớp 12A5 trường Trung học Phổ thông Tôn Đức Thắng năm học 2016-2017", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm biến những chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục.
Như vậy giáo dục đạo đức là một nhiệm vụ bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội để hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược Giáo dục và Đào tạo vì sự phát triển con người và phát triển xã hội. 
Khái niệm giáo dục kỉ luật tích cực
Giáo dục kỉ luật tích cực là cách giáo dục dựa trên những nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh, giáo dục nhưng không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của học sinh, có sự thỏa thuận giữa giáo viên – học sinh phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh.
Theo quan điểm giáo dục kỉ luật tích cực, việc mắc lỗi của học sinh được coi như lẽ tự nhiên của quá trình học tập và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên là làm thế nào để học sinh tự nhận thức được bản thân, tự kiểm soát được hành vi, thái độ trên cơ sở các quy định, quy tắc, quy ước được xây dựng, thỏa thuận giữa học sinh với giáo viên chủ nhiệm. Khi học sinh mắc lỗi, giáo viên là người bạn, người anh/chị, người bố, người mẹ chỉ cho các em nhận ra lỗi của mình để tự điều chỉnh. Việc tự nhận ra lỗi để điều chỉnh bản thân là cơ sở cho sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Đôi khi giáo dục dựa trên “sai lầm” của học sinh cũng mang lại tác dụng không nhỏ.
Giáo dục kỉ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho học sinh tính tự giác tuân theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài. Mục tiêu của giáo dục kỉ luật tích cực là dạy học sinh tự hiểu về hành vi của mình, có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp học sinh phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể anh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời sau này.
 2.Thực trạng
2.1 Thuận lợi – khó khăn:
Được sự quan tâm lãnh đạo kịp thời của Chi bộ, lãnh đạo nhà trường, sự quan tâm và ủng hộ của Ban đại diện và các bậc phụ huynh học sinh lớp 12A5.
Cơ sở vật chất đã và đang được đầu tư xây dựng theo hướng chuẩn, cơ bản đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo nhà trường, giáo viên chủ nhiệm luôn theo dõi sâu sát đến từng đối tượng học sinh. Giáo viên bộ môn đã hướng dẫn phương pháp học tập bộ môn cho các em, đa số các em đã xác định được động cơ học tập đúng đắn nên có nhiều cố gắng trong học tập qua việc chuẩn bị bài mới và học bài cũ ở nhà, chuẩn bị dụng cụ học tập và có tinh thần thi đua học tốt.
Một số học sinh có động cơ học tập tốt, được sự quan tâm chú ý của phụ huynh. Ban cán sự nhiệt tình năng nổ và luôn hoàn thành nội dung công việc được giao. Đa số HS thực hiện đúng tác phong khi đến lớp.
Bên cạnh đó còn có một số khó khăn như sau:
Hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm về giáo dục và kỉ luật học sinh. Những quan niệm đó được đúc kết, truyền miệng trong nhân dân từ đời này qua đời khác qua những câu tục ngữ, những lời nói hàng ngày: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, “Thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”, “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”
Khái niệm giáo dục kỉ luật tích cực vẫn còn xa lạ với nhiều giáo viên cũng như các bậc phu huynh. Đồng thời có giáo viên, phụ huynh lại hiểu giáo dục kỉ luật tích cực là để cho trẻ tự do muốn làm gì thì làm, điều này dẫn đến tình trạng vô kỉ luật, học sinh thiếu tôn trọng giáo viên, thiếu tôn trọng người lớn.
Tất cả những khó khăn trên đã phần nào ảnh hưởng đến các hoạt động cũng như học tập và rèn luyện của lớp 12A5 trong việc rèn luyện đạo đức theo hướng giáo dục kỉ luật tích cực.
2.2. Thành công, hạn chế
Các biện pháp trong đề tài sáng kiến này đã được đưa vào thực hiện trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp 12A5 tại trường THPT Tôn Đức Thắng năm học 2016 – 2017 và đã dần nâng cao ý thức của các thành viên trong lớp. Từ những thành công đó, tập thể lớp 12A5 đã dần khẳng định được vị thế trong các hoạt động phong trào của Đoàn trường và Nhà trường. 
Bên cạnh những thành công, đề tài vẫn còn nhiều hạn chế. Các biện pháp đưa ra chưa có điều kiện để thực nghiệm ở nhiều tập thể cùng một thời điểm, hoặc ở các thời điểm khác nhau để theo xu thế phát triển xã hội trong thời kì hội nhấp kinh tế quốc tế.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
Thông qua việc sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực đối với học sinh cả giáo viên và học sinh đều được hưởng lợi:
- Đối với học sinh: có nhiều cơ hội chia sẽ và bày tỏ suy nghĩ của bản thân về hành vi, được mọi người quan tâm, tôn trọng và lắng nghe ý kiến, không mất niềm tin; tích cực chủ động hơn trong học tập; tự tin trước mọi người; nhận ra được lỗi của mình, cảm thấy hòa nhập với tập thể; được sự quan tâm của giáo viên, tiếp thu bài tốt hơn; vui vẻ đến lớp, thích học hơn; gần gũi với bạn bè, thầy cô hơn.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm: giảm được áp lực quản lý lớp học do học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỉ luật. Từ đó giáo viên tạo được tin tưởng nơi học sinh, được học sinh tôn trọng và yêu quý; xây dựng được mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò; xây dựng được mối đoàn kết, thống nhất cao trong lớp; nâng cao hiệu quả quản lý lớp học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục; được sự đồng tình ủng hộ từ phái gia đình học sinh và xã hội.
Mặc dù vậy, trong quá trình sử dụng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực vẫn còn một số ít học sinh chưa nhận thức được hành vi của mình nên vẫn còn hiện tượng vi phạm một số nội dung trong nội quy của nhà trường và quy định của tập thể lớp.
2.4. Các nguyên nhân, yếu tố tác động
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng có thể tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: 
Lớp 12A5 được hình thành dựa trên nguyện vọng học tập của học sinh từ các lớp 11 năm học 2015 – 2016. Đa số các em được biên chế vào lớp có học lực trung bình và yếu, nhiều em trong các năm học trước đã phải ra Hội đồng kỉ luật nhà trường vì hành vi đánh nhau như em Nguyễn Thị Kim Anh, Đinh Thị Thu Thủy.
Học lực của học sinh lớp 12A5 còn thấp, cụ thể năm học 2015 – 2016: Tất cả các em học sinh trong lớp có học lực trung bình (31 học sinh) và yếu (04 học sinh) trong năm học lớp 11.
Hạnh kiểm năm học 2015 – 2016: Tốt: 22 học sinh, Khá: 12 học sinh, trung bình: 03 học sinh.
Số lượng học sinh ở cách xa trường trên từ 05km trở lên nhiều, phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng học tập và rèn luyện của các em học sinh.
Tổng số học sinh dân tộc thiểu số 13 học sinh. Số học sinh có hoàn cảnh khó khăn của lớp còn nhiều, có 02 học sinh thuộc hộ nghèo và 05 học sinh thuộc hộ cận nghèo, có 02 học sinh bố mẹ làm ăn xa, 02 học sinh mô côi cha
Tất cả những nguyên nhân trên đã phần nào ảnh hưởng đến các hoạt động cũng như học tập và rèn luyện của lớp 12A5 trong việc rèn luyện đạo đức theo hướng giáo dục kỉ luật tích cực.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.
3.1. Mục tiêu của giải pháp
Giáo dục kỉ luật tích cực là cách giáo dục học sinh tự hiểu về hành vi của mình, có trách nhiệm đối với sự lựa chọn của mình, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác. Nói cách khác giúp học sinh phát triển tư duy và có các hành vi tích cực có thể ảnh hưởng lâu dài đến cả cuộc đời sau này.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
3.2.1. Nhóm giải pháp thay đổi cách cư xử trong lớp học
* Nội dung: 
Trước đây, giáo viên thường xử lý các hành vi sai trái của học sinh bằng các hình thức trừng phạt như mắng, sỉ nhục, đánh đập... Điều đó có thể mang lại sự sửa đổi tức thì của học sinh nhưng đó chỉ là hành vi đối phó và chắc chắn nó sẽ để lại trong tâm hồn học sinh một sự tổn thương rất lớn về tinh thần và thể xác.
Ngày nay chúng ta cần phải thay đổi cách suy nghĩ và xử lí các hành vi sai phạm của học sinh bằng các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực. Cần xử lý bằng thái độ động viên, khuyến khích nhằm giúp học sinh có hành vi thái độ ứng xử đúng đắn. Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên cần phải có niềm tin nơi học sinh, xử lý, phân tích các sai phạm của học sinh một cách rõ ràng, minh bạch, dứt khoát, động viên, khuyến khích và làm gương trong cách ứng xử.
* Cách thức thực hiện: 
Để thực hiện được nhóm biện pháp này đòi hỏi giáo viên cần thực hiện theo các nội dung sau:
- Nội dung 1: Xây dựng những quy tắc rõ ràng và nhất quán:
Việc xây dựng các quy tắc cần hướng tới những điều tốt đẹp mà giáo viên mong đợi ở học sinh của mình và học sinh mong đợi từ bạn bè mình, bao gồm những mong đợi về tư cách đạo đức và kết quả học tập. Học sinh sẽ cố gắng đạt được điều mà giáo viên mong đợi và thực hiện các quy tắc tốt hơn khi các em thấy được rằng giáo viên thực sự tin tưởng vào khả năng của các em và quy tắc được đề ra phù hợp với niềm tin ấy.
Ngay từ đầu năm học, dựa trên Điều lệ trường THPT, Nội quy của Nhà trường, GVCN cùng tập thể lớp xây dựng nội quy lớp học. Nội quy dựa trên ý kiến của học sinh góp ý, giáo viên phân tích, định hướng đối với một số điều không phù hợp. Khi đã thống nhất, giáo viên biên tập lại cho phù hợp với văn bản đồng thời thông qua trước Hội nghị cha mẹ học sinh của lớp, khi được sự đồng ý của cha mẹ học sinh đưa nội quy lớp học vào thực hiện trong lớp học.
- Nội dung 2: Khuyến khích động viên tích cực:
Trong cuộc sống ai cũng thích được động viên khích lệ và khen ngợi. Vì đây là một sự công nhận về những gì mà người đó đã làm được và tạo được động lực cho những việc làm tiếp theo. Giáo viên không nên tiếc lời khen ngợi, động viên khi học sinh có hành vi tích cực hay có những biểu hiện tiến bộ.
Việc động viên tích cực được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như mỉm cười với học sinh, khen ngợi, biểu dương trước lớp, gửi tin nhắn thông qua hệ thống tin nhắn điện tử Smax.
- Nội dung 3: Áp dụng những hình thức phạt phù hợp, công bằng và nhất quán:
Mục đích sử dụng các hình phạt là giúp học sinh biết rằng cách cư xử của các em là chưa đúng chứ không nhằm đưa ra lời nhận xét về các em. 
Trong quá trình áp dụng các hình phạt cần công bằng, khoan dung, tránh gây căng thẳng, đối đầu với học sinh khi xử lý các sai phạm. Nếu hai học sinh cùng vi phạm một lỗi thì hình thức xử phạt như nhau chứ không phải vì học sinh khá hay là nằm trong ban cán sự lớp mà được miễn hoặc giảm nhẹ hình phạt.
Trong quá trình xử phạt giáo viên cần tìm hiểu nguyên nhân do đâu, do tác động của ngoại cảnh hay do bản thân em cố tình gây ra.
Khi phạt học sinh giáo viên đừng bao giờ đưa ra những hình phạt chưa được quy định và thống nhất trước. Nếu trong nội quy lớp học chưa có quy định điều học sinh vi phạm, điều đầu tiên là giáo viên phân tích tác hại của lỗi vi phạm và đưa vào nội quy lớp học đồng thời xác định hình phạt phù hợp với lỗi vi phạm đó và chỉ áp dụng nếu được tập thể lớp đồng ý.
Chẳng hạn vào ngày 02 tháng 11 năm 2016, học sinh Đoàn Trường Khánh Giang đi học về do không mặc áo mưa (Dù trong cốp xe có áo mưa) nên quần áo, sách vở bị ướt. Vì lo lắng cho sức khỏe của con, bố em có nhắc nhở và bố con có lời qua tiếng lại. Học sinh Giang đã có hành vi sai trái là bỏ nhà đi và tuyên bố với gia đình là sẽ bỏ học. Phụ huynh buồn đau, lo lắng nhưng không thể liên lạc được với học sinh. Vào buổi sáng hôm sau khi lên sinh hoạt 15 phút đầu giờ, thấy học sinh Giang vắng mặt không rõ lý do, GVCN đã liên lạc với gia đình và biết được sự việc. GVCN đã tìm cách liên lạc với học sinh phân tích hành vi sai trái của mình, học sinh Giang cũng dần nhận ra được lỗi sai trong cách cư xử với gia đình và để gia đình lo lắng. Từ đó tới nay học sinh Giang học tập tích cực, có ý thức hơn trong việc học tập và tham gia các hoạt động của lớp như tham gia chấm thi đua đúng quy định với tư cách là Cờ đỏ. Đối với học sinh Giang năm học 2015 – 2016 hiện tượng xích mích với gia đình thường xuyên xảy ra. Nhưng từ vụ việc ngày 02/11 đến nay, PHHS đã yên tâm hơn khi thấy suy nghĩ và hành động của em đã chín chắn và luôn hòa đồng với các thành viên trong gia đình.
- Nội dung 4: Làm gương trong cách cư xử: 
Giáo viên là tấm gương cho các em học sinh noi theo. Vì vậy giáo viên luôn phải gương mẫu về cách cư xử, ngôn ngữ và hành vi. Không thể giáo dục học sinh nếu giáo viên phạt học sinh về những điều học sinh không được làm nhưng giáo viên lại mắc phải. Ví dụ: việc cấm học sinh làm việc riêng hay sử dụng điện thoại trong giờ học thì giáo viên tuyệt đối không được làm việc riêng trong các hoạt động như tổ chức Chào cờ đầu tuần, nghe và gọi điện thoại trong tiết học. Điều này thì bản thân tôi luôn làm gương để học sinh noi theo.
Trong nội quy, nếu giáo viên có những mong đợi đối với học sinh thì học sinh cũng có quyền mong đợi ở giáo viên và mỗi khi đã được đưa vào nội quy thì giáo viên cũng phải tuân thủ.
* Kết quả:
Giáo viên cùng tập thể đã xây dựng được quy tắc cư xử rõ ràng, nhất quán trong việc xử lý các hành vi sai phạm của học sinh. Tất cả các thành viên trong lớp chấp nhận sử dụng các hình thức xử lý chính các thành viên học sinh đưa ra và giáo viên thống nhất đưa vào sử dụng trong năm học 2016 – 2017. (Phụ lục 1)
3.2.2. Quan tâm đến hoàn cảnh của học sinh
* Nội dung: 
Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”.
Mỗi học sinh sống trong một môi trường gia đình khác nhau, một hoàn cảnh khác nhau. Có những gia đình có bầu không khí vui vẻ, hòa thuận, cha mẹ quan tâm động viên cón cái, có những gia đình cha mẹ quá kì vọng vào con cái nên nếu con mình không đạt được mục tiêu đó thì có thể có thái độ tiêu cực, chỉ trích và thậm chí có thể đánh đòn. 
Mỗi lớp học đều bao gồm nhiều cá thể học sinh với những cá tính, phong cách, đặc điểm và hoàn cảnh gia đình khác nhau. Hoàn cảnh và sự khác biệt về cá tính có tác động khác nhau đến việc học tập của các em và ảnh hướng tới: động lực học tập của học sinh; động lực thành công của học sinh; lòng tự tin và khả năng của bản thân; kĩ năng xã hội; cảm xúc của các em khi có người lớn bên cạnh.
* Cách thức thực hiện:
– Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn bè . Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những mầm mống, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp.
– Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên chủ nhiệm có thể vận dụng những cách thức sau:
+ Thông qua phiếu lý lịch đầu năm học, trong buổi đầu tiên lớp gặp Giáo viên chủ nhiệm trước khi bước vào năm học mới. (Phụ lục 2).
+ Thông qua, giấy tờ cá nhân của học sinh (khai sinh, hộ khẩu ).
+ Thông qua giấy tờ, hồ sơ, học bạ của học sinh.
* Kết quả:
Ngay từ đầu năm học giáo viên đã cơ bản năm được tình hình, hoàn cảnh của từng học sinh và ghi chép vào Sổ công tác chủ nhiệm. Qua đó giúp GVCN biết được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những học sinh sẽ rơi vào trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời ngăn chặn, uốn nắn, biết được những học sinh nào có hoàn cảnh khó khăn dẫn đến nguy cơ bỏ học cao để báo lên Hội khuyến học nhà trường kịp thời giúp đỡ.
Ví dụ: Đối với học sinh Nguyễn Thi Thu Thủy là học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhưng không được nhà nước cấp Giấy chứng nhận Hồ nghèo, cộng thêm mẹ của em mới bị tai biến năm một chỗ nên em có suy nghĩ bỏ học ở nhà để phụ giúp gia đình. Ngoài ra em còn bị bệnh trĩ ngoại tương đối nặng cần chi phí để chữa trị. Và thực tế em cũng đã nghỉ học 17 buổi học, từ ngày 22/9/2016 đến ngày 11/10/2017. Trong đó từ ngày 22/9 đến ngày 01/10/2016 em bị đau nặng và phải đi phẫu thuật tại TP Hồ Chí Minh. Sau điều trị bệnh tình đã ổn nhưng tư tưởng của em chán nản và nghỉ học. Giáo viên chủ nhiệm đã thường xuyên tới gia đình để động viên, chia sẻ và cuối cùng em đã tự tin để đi học trở lại. Chưa dừng lại ở đó, giáo viên chủ nhiệm đã hướng dẫn em viết đơn để được nhà trường miễn, giảm các khoản đóng góp, đồng thời vận động giáo viên trong nhà trường hỗ trợ em về các khoản không được nhà trường miễn. Đến nay em tham gia học tập bình thường, tham gia phong trào của lớp, trường tích cực. Hầu hết các trò chơi hướng tới ngày thành lập Đoàn TN CS Hồ Chí Minh 26/3/2017 em đều tham gia cùng tập thể lớp. 
3.2.3. Tăng cường sự tham gia của học sinh trong xây dựng và giám sát nội quy lớp học
* Nội dung:
Nội quy nhà trường là một hệ thống những quy định nhất định được dùng để điều chỉnh hành vi của học sinh và duy trì trật tự trường học. Những quy định trong nội quy nhà trường bào gồm những chuẩn mực quy định về trang phục, giờ giấc cũng như hành vi giao tiếp và đạo đức làm việc. Nội quy học sinh thường được thực hiện bằng những hình thức kỉ luật khi có sai phạm trong hành vi.
Mục đích chính của nội quy học sinh là tạo ra môi trường học tập an toàn và vui vẻ trong lớp học. Nội quy là một phần cần thiết của cuộc sống học đường và các biện pháp nhằm duy trì nội quy không phải lúc nào cũng thành công.
Vì vậy để xây dựng được nội quy lớp học và thực hiện nội quy một cách dễ dàng áp dụng, giáo viên chủ nhiệm cùng với học sinh xây dựng nội quy của lớp học dựa trên nội quy của nhà trường và Điều lệ trường THTP.
* Cách thức thực hiện: 
Giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh tham gia xây dựng nội quy lớp học. Việc tham gia xây dựng nội quy của chính các em là biện pháp nhằm nhấn mạnh và mang ý nghĩa quan trọng của việc cho các em tham gia vòa quá trình ra quyết định trong lớp học. Để xây dựng được nội quy giáo viên cần đình hướng theo các bước sau:
- Bước 1: Giáo viên chủ nhiệm giới thiệu mục đích, nội dung tiết sinh hoạt xây dựng nội quy của lớp.
- Bước 2: Học sinh chia sẻ, đưa ra nguyện vọng của mình đối với một nội quy lớp học.
- Bước 3: Học sinh thảo luận nhóm theo các câu hỏi mà giáo viên đặt ra.
- Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận.
- Bước 5: Giáo viên hướng dẫn tổng hợp, chọn lựa những nội qui, quy định phù hợp với tình hình thực tế của lớp và hoàn thiện Bản nội quy lớp học của lớp.
* Kết quả:
Sau khi thảo luận tập thể lớp 12A5 đã xây dựng được nội quy lớp học sát thực với tình hình (Phụ lục 2), thực tế của lớp học. Từ đầu năm học 2016 – 2017 tới nay các em đã bám sát với nội quy để hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ học tập của người học sinh. Hàng tuần giáo viên chủ nhiệm căn cứ vào cách tính điểm để xếp loại hạnh kiểm học sinh và cuối mỗi học kì tổng hợp lại tất cả các tuần để xếp loại hạnh kiểm. 
3.2.4. Xây dựng tập thể lớp học thân thiện, gắn bó
* Nội dung:
Việc xây dựng lớp học thân thiện, cảm thông và gắn bó giữa giáo viên với học sinh trong quá trong quá trình dạy học là việc làm rất cần thiết trong giáo dục đạo đức theo hướng tích cực. Một tập thể lớp tốt là tập thể hướng tới và hoạt động dựa trên các giá trị như: tôn trọng, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải quyết các xung đột không bằng bào lực. Ngoài ra trong tập thể lớp đó cũng không sử dụng các hình thức bạo lực để trừng phạt học sinh. Các em sẽ học cách giải quyết xung đột bằng các hình thức tích cực và thân thiện.
* Cách thức thực hiện: Để xây dựng tập thể lớp học thân thiện, gắn bó giáo viên cần thực hiện theo các hoạt động như sau:
- Hoạt động 1: Tạo lập hình ảnh một lớp học lý tưởng.
Hoạt động này giúp học sinh suy nghĩ và thảo luận về những đặc điểm của một tập thể tốt. Giáo viên cùng học sinh thảo luận và tìm ra hình ảnh của một lớp học lý tưởng bằng cách đặt ra các câu hỏi:
+ Theo em một tập thể lớp tốt có những đực điểm gì?
+ Nguyên tắc của một tập thể tốt là gì?
+ Một tập thể lớp tốt có đòi hỏi tất cả các thành viên phải thế nào?
+ Mọi người phải đối xử với nhau ra sao?
+ Điều gì cản trở một tập thể trở thành một tập thể tốt?
+ Chúng ta cần làm gì để lớp chúng ta trở thành một tập thể tốt như chúng ta mong muốn?
Khi học sinh thảo luận xong sẽ cử đại diện lên bảng trình bày, giáo viên thống nhất và bổ sung thêm các nội dung còn thiếu.
- Hoạt động 2: Tạo lập sự gắn kết các th

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_dao_duc_hoc_sinh_theo_huong_g.doc