SKKN Giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ nói

SKKN Giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ nói

Phần luyện nói theo chủ đề là một nội dung nhằm phát triển ngôn ngữ tự nhiên của trẻ, do vậy sau mỗi bài học nào cũng có mục luyện nói theo chủ đề, tùy thuộc vào tình hình thực tế nơi các em sinh sống và chủ đề mà giáo viên điều chỉnh cho phù hợp nội dung luyện nói. Để đạt được kết quả trong mục luyện nói này, giáo viên nên định hướng cho các em về chủ đề thành những nội dung cụ thể và nên tổ chức hoạt động theo nhóm 2, không nên tổ chức hoạt động theo nhóm lớn vì như thế các em sẽ ít được tham gia nói. Nếu hoạt động theo nhóm 2 thì sẽ giúp học sinh hỏi – trả lời theo chủ đề, có đổi qua lại hỏi – đáp để học nào cũng được tham gia nói. Khi học sinh tham gia hoạt động nhóm thì giáo viên cần theo dõi và không bỏ sót một trẻ nào khi yêu cầu trẻ trả lời câu hỏi, giáo viên không nên chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì thế việc phân nhóm nhỏ để tập trung nói là rất cần thiết.

 Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.

 Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa đúng, hay dùng từ chưa chính xác trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ.

 Cuối mỗi bài ôn tập phần học vần có mục kể chuyện, sang dạy phân môn tập đọc ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có một tiết dạy kể chuyện cụ thể. Tập đọc và kể chuyện cũng là một cách rèn nói cho học sinh có kĩ năng nói tốt. Đối với học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm.

 

doc 11 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 924Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ nói", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương pháp điều tra.
- Phương pháp khảo nghiệm.
- Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu. 
- Nghiên cứu tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
	Các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội loài người. Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: nói và viết. Cũng diễn đạt một nội dung nào đó bằng phương tiện ngôn ngữ, có thể sử dụng dạng nói hoặc viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh giao tiếp.
Kĩ năng nói – một điều mà bất cứ người giáo viên nào khi đứng trên bục giảng cũng luôn mong muốn ở học sinh mình dạy luôn thực hiện tốt. Không chỉ giáo viên mà ngay cả khi nghe người khác nói đúng, nói đủ, nói trọng tâm sẽ giúp người nghe dễ hiểu nội dung câu chuyện. Có những người còn có giọng nói truyền cảm sẽ dễ đi vào lòng người hơn. Và trong giao tiếp ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp thông dụng nhất, quan trọng nhất. Trong một tiết học, các hoạt động tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh đều thông qua ngôn ngữ nói sau đó mới thực hành viết. Như vậy góp phần khẳng định nói là kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp của con người. 
2. Thực trạng
- Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững.
	 - Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, trong lớp còn có bốn loại học sinh dân tộc và có ba loại học sinh dân tộc thiểu số trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ và học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. ít có điều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ nên ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nhiều.
a. Thuận lợi – khó khăn
+ Thuận lợi: Sách giáo khoa môn Tiếng Việt hiện nay tạo ra nhiều cơ hội cho học sinh luyện nói. Ngay từ những bài học đầu tiên của lớp 1, học sinh đã được luyện nói theo chủ đề. Những chủ đề luyện nói cuối mỗi bài học vần nếu thực hiện tốt sẽ vừa giúp các em ôn các âm, vần vừa học, vừa tạo không khí học tập thoải mái, thân thiện, vừa góp phần rèn kĩ năng nói theo chủ đề cho học sinh. Sau phần ôn tập có giành thời lượng khoảng 10 -> 12 phút cho kể chuyện. Sang khoảng giữa kì 2 (hết phần học vần chuyển sang phân môn tập đọc – lớp 1 có tiết kể chuyện). Nội dung các bài của phân môn kể chuyện, tập làm văn, tập đọc, luyện từ và câu ở các lớp 2; 3; 4; 5 đã từng bước rèn luyện và phát triển kĩ năng nói cho học sinh.
	+ Khó khăn: - Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. 
	b. Thành công – hạn chế
+ Thành công: Hầu hết các em được học qua do tôi chủ nhiệm, các em đều nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn.
+ Hạn chế: 
* Đối với giáo viên: Còn có giáo viên
- Chưa kiểm soát kết quả học sinh luyện nói theo nhóm, khiến việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả. 
- Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu quả.
- Chưa xác định trọng tâm của giờ học cũng như chưa linh hoạt trong việc tập trung vào những kĩ năng còn hạn chế của học sinh.
* Đối với học sinh: - Các em còn lúng túng khi nói chính là các em còn hạn chế vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm giao tiếp dẫn đến việc các em không biết nói gì với các chủ đề luyện nói theo yêu cầu bài học hoặc trong quá trình học tập.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
+ Mặt mạnh: - Hầu hết các em phát huy được những ưu điểm khi tôi hướng dẫn luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại”
+ Mặt yếu: - Những em chưa thông thạo Tiếng Việt việc hướng dẫn các em luyện nói có phần hạn chế.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: 
- Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo viên đánh giá được tất cả học sinh của mình dạy hiểu bài ở mức độ nào thì việc đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia trả lời, nhận xét lẫn nhau.
Có như thế đó mới là tiết học thực sự là lấy học sinh làm trung tâm. muốn vậy thì việc giúp học sinh nói tốt rất cần thiết trong tất cả các môn học cũng như bất kì một hoạt động giao tiếp nào.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Đề tài đưa ra một số giải pháp, biện pháp nhằm giúp giáo viên hướng dẫn các em có khả năng nói và kĩ năng nói tốt nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Việc rèn nói cho các em nói tốt, nói thành thạo, nói đúng, nói đủ ý câu giúp các em tự tin khi giao tiếp và lĩnh hội được kiến thức bài giảng của giáo viên đầy đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi đối tượng học sinh vào bài học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn toàn như mong muốn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
+ Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kì, theo bài.
+ Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh
+ Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao.
+ Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn.
+ Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học
- Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng quan trọng ở tất cả các môn học. Vì vậy kĩ năng nói cần được quan tâm đúng mức.
- Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ ràng cho mọi đối tượng học sinh đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời ( dạy phân hóa theo các đối tượng học sinh), không chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu nói tốt mà phải giành cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia nói. Cũng không nhất thiết cứ phải tới mục luyện nói của môn Tiếng Việt thì các em mới được tham gia nói mà ngay trong quá trình giảng dạy ở tất cả các môn, các em đều được tham gia nói.
+ Trong môn toán:
 (Ví dụ: Giáo viên hỏi: 2 + 3 = ? (hai cộng ba bằng mấy? ) – thường thì học sinh chỉ trả lời luôn kết quả: 5 hoặc bằng 5. Lúc này giáo viên giúp đỡ học sinh hiểu ngoài việc nói đúng ra cần phải nói đủ ý câu như: hai cộng ba bằng năm 
(2 + 3 = 5) và cho học sinh nhận xét câu trả lời của bạn. Khi học sinh tham gia nhận xét câu trả lời của bạn mình đó cũng là hình thức giúp các em luyện nói: Như ví dụ trên khi bạn trả lời, học sinh khác sẽ tham gia nhận xét bạn: Thưa cô bạn nói đúng nhưng chưa đủ ý câu: (5 hoặc bằng 5). Hoặc bạn nói đúng, đủ, nói to, rõ ràng ạ như vậy đã thể hiện hình thức tăng cường Tiêng Việt cho học sinh và giúp người nghe hiểu trọn vẹn nội dung đề yêu cầu. Ngoài ra trong quá trình hình thành các phép tính, giáo viên hướng dẫn cho các em nói thông qua các các hình vẽ (trực quan) hoặc đồ dùng có sẵn, từ các bài học nhận biết số cho đến các phép tính và sau là toán giải có lời văn. Giúp các em tự lĩnh hội được kĩ năng nói Tiếng Việt tốt hơn.
Ví dụ: Cho tóm tắt bài toán:
Mai có: 10 kẹo
Mai cho: 4 kẹo
Mai còn:kẹo?
Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi Mai còn lại mấy(bao nhiêu) kẹo? để từ đó giúp các em giải bài toán có lời giải đúng, đủ, rõ nghĩa.
+ Trong môn âm nhạc: 
Trong quá trình dạy môn âm nhạc (phần dạy lời bài hát), bao giờ giáo viên cũng cho các em được đọc lời bài hát. Đó cũng là một phần trong việc rèn nói (nói đúng lời bài hát), sau đó hướng dẫn các em hát và yêu cầu hát thuộc lời bài hát. Khi các em tập hát to, ngay cả khi chúng ở nhà một mình, trẻ sẽ vượt qua nỗi sợ diễn thuyết. hát thuộc lời bài hát đúng giai điệu bài hát đó được đánh giá là có năng khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói.
+ Trong môn Tiếng Việt:
Cuối mỗi bài (phân môn học vần) đều có mục luyện nói song không phải cứ đến mục này thì các em mới được tham gia nói, mà trong quá trình đàm thoại như khi bắt đầu vào học vần mới là nhận diện vần, các em đã được tham gia nóí, giáo viên định hướng, uốn nắn cho học sinh nói từ nói đúng đến nói đủ, không nên trả lời trống không.
Ví dụ khi dạy vần ôt - ơt (bài 70 )
Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần.
- Vần gồm mấy âm? (Học sinh trả lời: Vần gồm hai âm: Âm ô đứng trước, âm t đứng sau). Đến đây giáo viên cũng cần uốn nắn ngay từ đầu để các em cần nói đúng, đủ, kể cả học sinh khác tham gia nhận xét cũng vậy. (ví dụ: Em thưa cô bạn trả lời đúng, đủ rồi ạ; hoặc bạn nói (trả lời) đúng (gần đúng) rồi ạ) . Không nên để học sinh trả lời cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói 
Đến khi xây dựng tiếng: Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm gì và thanh gì? (Thường thì học sinh hay trả lời: âm c và thanh nặng), nhưng giáo viên cần uốn nắn cho các em nói đúng, đủ ý câu: (Đã có vần ôt, muốn có tiếng cột ta phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô).
Khi xây dựng và rút ra từ khóa: cột cờ. Giáo viên cần giúp đỡ các em nói được: Từ cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau.
Khi dạy đến vần 2 (ơt), yêu cầu so sánh hai vần, giúp các em nói được: hai vần giống nhau đều có âm (t) đứng cuối vần; hai vần khác nhau hai âm đầu vần (âm ô khác âm ơ).
	Như vậy cứ sau một hoạt động, giáo viên đều cho các em tự nhận xét về câu trả lời của bạn, đó cũng chính là hình thức tăng cường Tiếng Việt (hay đó chính là động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo viên cần quan sát và nếu còn có học sinh luyện nói chưa tốt, giáo viên nên hướng dẫn cho các em thực hành nói theo mẫu. 
	Phần luyện nói theo chủ đề là một nội dung nhằm phát triển ngôn ngữ tự nhiên của trẻ, do vậy sau mỗi bài học nào cũng có mục luyện nói theo chủ đề, tùy thuộc vào tình hình thực tế nơi các em sinh sống và chủ đề mà giáo viên điều chỉnh cho phù hợp nội dung luyện nói. Để đạt được kết quả trong mục luyện nói này, giáo viên nên định hướng cho các em về chủ đề thành những nội dung cụ thể và nên tổ chức hoạt động theo nhóm 2, không nên tổ chức hoạt động theo nhóm lớn vì như thế các em sẽ ít được tham gia nói. Nếu hoạt động theo nhóm 2 thì sẽ giúp học sinh hỏi – trả lời theo chủ đề, có đổi qua lại hỏi – đáp để học nào cũng được tham gia nói. Khi học sinh tham gia hoạt động nhóm thì giáo viên cần theo dõi và không bỏ sót một trẻ nào khi yêu cầu trẻ trả lời câu hỏi, giáo viên không nên chú ý đến những em hay giơ tay. Giáo viên cần đảm bảo tạo cơ hội cho tất cả các học sinh lần lượt được nói trước lớp. Chính vì thế việc phân nhóm nhỏ để tập trung nói là rất cần thiết.
	 Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
	Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa đúng, hay dùng từ chưa chính xác trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ.
	Cuối mỗi bài ôn tập phần học vần có mục kể chuyện, sang dạy phân môn tập đọc ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có một tiết dạy kể chuyện cụ thể. Tập đọc và kể chuyện cũng là một cách rèn nói cho học sinh có kĩ năng nói tốt. Đối với học sinh có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm. 
* Kết hợp với giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay.
	Đối với giáo viên dạy các môn chuyên biệt (thể dục, mĩ thuật) và giáo viên dạy thay, tôi thường xuyên gặp và trao đổi để cùng với giáo viên chủ nhiệm nhắc nhở, uốn nắn cách trả lời của các em ngay trong từng tiết học, môn học để các em thấy được thầy cô nào cũng quan tâm, cũng có trách nhiệm mong muốn các em tiến bộ. Từ đó các em sẽ cố gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm vụ học tập và để tất cả các thầy cô được vui.
* Kết hợp với gia đình học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng con đọc tốt, viết tốt, (thực hành) làm bài tập đúng là đủ. Lúc này giáo viên cần định hướng cho họ hiểu về các kĩ năng cần và đủ của một học sinh. Vì vậy giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh học sinh vào các buổi họp cha mẹ học sinh giúp họ hiểu phát triển toàn diện về một học sinh có năng khiếu một cách đúng đắn, về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng nói nói riêng. Cần giúp họ hiểu việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi người xung quanh để các em học tập, noi theo. Khuyến khích phụ huynh có con học tập tiến bộ bằng phần thưởng như: Cho đi tham quan, du lịch giúp các em phát triển tri giác nhiều sẽ tốt cho các em khi làm văn sau này.
Tuyên truyền tới cha mẹ học sinh giúp con mình phát triển kĩ năng ngôn ngữ nói Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát. 
Đối với phụ huynh là người dân tộc thiểu số: Giáo viên cần gặp trực tiếp và góp ý khi giao tiếp ở nhà bằng tiếng Việt, không nên nói tiếng mẹ đẻ nhiều nhưng vẫn cần giữ gìn bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng. 
* Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao.
 Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở các hoạt động giao tiếp khác như: Khi các em tham gia sinh hoạt sao được các anh chị đội viên lớp trên xuống sinh hoạt, giáo viên nên hướng dẫn và kết hợp với anh chị đội viên này để hướng dẫn các em hát, múa, thể dục. Giúp các em mạnh dạn, tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông.
*Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời.
Mỗi khi học sinh học tập tốt ở tất cả mọi lĩnh vực trong đó có phần luyện nói, kĩ năng nói tốt thì giáo viên cần tuyên dương kịp thờì, đây là động lực thúc đẩy có hiệu quả cao nhất giúp các em đã làm tốt phát huy, những em chưa mạnh dạn, chưa tự tin khi nói cũng tự điều chỉnh. Không nên chê hoặc phạt khi các em nói chưa đúng theo ý mình mà cần giúp các em hiểu nội dung cần nói để các em tham gia nói tích cực. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên là người chuẩn mực nhất, tuyệt vời nhất, nói gì cũng đúng. Chính vì thế nên giáo viên phải có kĩ năng nói chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng nói truyền cảm khi kể chuyện.
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
	Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò của việc nói và kĩ năng nói.	Cần có sự hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1.
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ mật thiết và 
lôgic xuyên suốt trong quá trình dạy học kể cả giờ học chính khoá cũng như ngoại khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp.
	e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
	- Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói tốt và có kĩ năng nói tốt. Nói đúng, nói đủ ý câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Kết quả khảo nghiệm năm học 2013 – 2014 của lớp 1A trường tiểu học Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó có 2 học sinh khuyết tật nặng; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ).
 Mức độ
Giai đoạn
Nói trống không
Nói chưa đủ ý
Nói đúng, đủ ý câu (trả lời)
Tham gia nhận xét đánh giá bạn nói
Phát triển lời nói tự nhiên
Đầu năm học
97 -> 99%
90- >95%
8 -> 10 %
10 -> 15 %
15 -> 17 %
Cuối năm học
1 -> 0 %
2 -> 1 %
98 -> 100%
98 -> 100%
94 -> 96 %
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Những giải pháp, biện pháp này vẫn được tôi tiếp tục vận dụng trong năm học 2014 - 2015 và thu được kêt quả rất tốt trong học kì 1 này.
Đề tài rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 1có tác động tới giáo viên trong toàn khối 1 của trường. Đề tài có thể nghiên cứu và phát triển cao hơn. 
Như vậy để có tiết học tốt, giờ học tốt, trước hết người giáo viên phải định hướng cho các em chăm chú nghe giảng, tham gia nói, có kĩ năng nói tốt. Thực tế cho thấy giáo viên chủ nhiệm càng quan tâm tới bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và đặc biệt là kĩ năng nói bao nhiêu thì các em học tốt bấy nhiêu. Và qua kinh nghiệm này của tôi, tôi thiết nghĩ đã góp phần thúc đẩy động cơ học tập cho các em, giúp các em tự tin trong học tập, mạnh dạn trong giao tiếp thông qua ngôn ngữ nói, giúp các em lĩnh hội bài học một cách có chủ động và hiểu bài sâu hơn, tốt hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên phải xây dựng được kế hoạch bài dạy dài hạn và theo từng chủ đề, từng bài theo hướng đổi mới. Vậy muốn cho học sinh nói tốt, trước hết người giáo viên phải nắm được vai trò của việc luyện nói cũng như kĩ năng nói. người giáo viên chủ nhiệm phải biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của học sinh địa phương.
Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 nói riêng và các khối lớp khác trong trường được tốt.
2. Kiến nghị
Đối với lãnh đạo cần mở chuyên đề (một tiết dạy ) cụ thể về hình thức tăng cường Tiếng Việt “ cần có điểm nhấn” cho học sinh như vùng có nhiều học sinh là học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc biệt là lớp một.
 Người viết. 
 Phạm Thị Hòe
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
..........................................................................................................

Tài liệu đính kèm:

  • docSÁNG KIẾN HÒE - NÓI - 1.doc