Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở

Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở

2. Mục đích nghiên cứu

Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài: Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu

tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở, nhằm mục đích:

- Cung cấp kiến thức cơ bản về đặc điểm và cách tạo lập văn bản nghị luận.

- Rèn kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào

bài văn nghị luận.

- Thông qua việc rèn luyện kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn

nghị luận, nhằm góp phần hoàn thiện năng lực giao tiếp cho học sinh. Bởi vì,

văn bản nói chung và văn bản nghị luận nói riêng vừa là phương tiện vừa là sản

phẩm giao tiếp

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với khả năng và tài liệu cho phép, tôi xác định Sáng kiến kinh nghiệm

những nhiệm vụ chính như sau:

3.1. Xây dựng những tiền đề lí thuyết và thực tiễn làm cơ sở khoa học cho

việc rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh

THCS.

3.2. Đề xuất nội dung, phương pháp và các hình thức rèn luyện kĩ năng đưa

yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận.

3.3. Tổ chức thực nghiệm dạy học để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu

quả của các giải pháp được đề xuất.

pdf 47 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 772Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số lưu ý khi rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn nghị luận cho học sinh Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, thơ; Thực hành nói, viết văn 
bản nghị luận về một hiện tượng, sự việc trong đời sống, về một vấn đề tư 
tưởng, đạo lí, về một tác phẩm truyện, thơ. 
Nhìn nhận lại nội dung chương trình SGK Ngữ văn THCS về phần Làm 
văn chúng tôi thấy, học sinh được cung cấp tri thức về các kiểu văn bản và được 
hình thành các kĩ năng để tạo lập các kiểu văn bản đó. Càng lên cao thì yêu cầu 
về tạo lập các kiểu văn bản càng cao. Riêng kiểu văn bản nghị luận THCS, học 
sinh được học cả kiến thức lí thuyết và kĩ năng thực hành. Lớp 8, bước đầu học 
sinh được rèn luyện kĩ năng đưa các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn 
nghị luận. Tuy nhiên thời lượng dành cho rèn luyện kĩ năng không nhiều. Mỗi 
loại kĩ năng chỉ được luyện tập trong một tiết. Điều đó dẫn đến những khó khăn 
không thể tránh khỏi đối với cả người dạy và người học. 
Đối chiếu với chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban 
hành về mức độ cần đạt của học sinh lớp 8 khi học kiểu văn bản nghị luận 
(Hình thành kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận/ Hiểu yêu cầu và biết cách đưa 
các yếu tố biểu cảm, tự sự, miêu tả vào bài văn nghị luận), tôi thấy nhiệm vụ và 
trách nhiệm của giáo viên khi dạy phần làm văn lớp 8 là vô cùng nặng. Giáo 
viên cần suy nghĩ lựa chọn và tìm ra phương pháp dạy học thích hợp nhất mới 
có thể đáp ứng được yêu cầu của chuẩn kiến thức, kĩ năng nêu trên. 
Nguyên tắc dạy học tạo lập văn bản là phải gắn lí thuyết với thực hành. Do 
vậy, sau mỗi bài học lí thuyết đều có bài tập thực hành và giờ luyện tập thực 
hành. Tuy nhiên, qua tìm hiểu SGK, sách bài tập và một số sách tham khảo về 
Ngữ văn 8, tôi cũng nhận thấy rằng, bài tập luyện tập thực hành chưa nhiều, 
chưa biên soạn thành hệ thống. Riêng đối với bài Luyện tập Đưa yếu tố biểu 
cảm vào bài văn nghị luận (Chương trình Ngữ văn 8), tôi thấy sách giáo khoa 
 19
chỉ đưa ra 1 bài tập luyện tập. Như vậy rất khó giúp học sinh hình thành được 
kĩ năng. Do vậy, để việc rèn luyện kĩ năng vận dụng tốt cách đưa yếu tố biểu 
cảm vào bài văn nghị luận cần xây dựng hệ thống bài tập phong phú có hệ thống 
và cụ thể hơn. 
Tóm lại, qua khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn và 
thực tiễn dạy học của giáo viên, học sinh về văn nghị luận lớp 8, tôi thấy rằng để 
nâng cao chất lượng làm văn nghị luận cho học sinh cần phải tổ chức rèn luyện 
các kĩ năng phục vụ cho việc viết văn nghị luận. Trong đó có kĩ năng sử dụng 
kết hợp các phương thức biểu đạt là rất quan trọng đối với hành văn khi tạo lập 
văn bản nghị luận. 
II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐƯA YẾU TỐ BIỂU CẢM VÀO BÀI VĂN 
NGHỊ LUẬN 
1. Lựa chọn bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào văn 
nghị luận 
1.1. Vị trí và tác dụng của bài tập 
"Mục tiêu của môn Ngữ văn THCS chủ yếu là hình thành và nâng cao năng 
lực đọc hiểu văn bản và làm văn" cho học sinh. Để nâng cao năng lực làm văn 
cần trang bị cho học sinh tri thức và kĩ năng về các kiểu văn bản và tạo lập các 
kiểu văn bản đó. Tri thức rất quan trọng nhưng không phải tất cả tri thức về các 
kiểu văn bản đều trở thành kĩ năng tạo lập các kiểu văn bản ấy. Muốn có kĩ năng 
thì phải làm, phải thực hành. Không phải chỉ làm một lần mà phải làm nhiều lần, 
làm đi làm lại cho thành thạo. Như vậy, kĩ năng chỉ hình thành khi có quá trình 
rèn luyện, luyện tập, thực hành. 
Việc rèn kĩ năng làm văn cho học sinh nói chung và việc rèn kĩ năng đưa 
yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận cho học sinh lớp 8 nói riêng luôn đòi hỏi 
phải xác định được nội dung luyện tập thực hành, đồng thời phải xác định được 
cách thức luyện tập thực hành. Nội dung luyện tập thực hành chính là hệ thống 
bài tập. Còn cách thức luyện tập là phương pháp tổ chức cho học sinh luyện tập 
của giáo viên. 
Bài tập trong dạy học môn Làm văn rất quan trọng, giữ vị trí trung tâm của quá 
trình dạy học bộ môn này. Bởi vì “bản chất của làm văn là thực hành, lí thuyết làm 
văn cũng là lí thuyết thực hành”. Kiến thức lí thuyết được hình thành trên cơ sở giải 
quyết các bài tập tình huống. Kiến thức ấy lại được củng cố hoàn thiện bằng bài tập 
luyện tập. Điều đó thể hiện ở qui trình dạy học: sau mỗi giờ học cung cấp kiến thức lí 
thuyết bao giờ cũng có giờ thực hành luyện tập bằng bài tập, qua đó hình thành 
những kĩ năng, năng lực tạo lập văn bản cho học sinh. 
 20
Bài tập trong làm văn có tác dụng làm rõ kiến thức lí thuyết, khắc sâu 
những vấn đề lí thuyết đã được học cho học sinh. Đồng thời, bài tập cũng là 
phương tiện để học sinh biến kiến thức thành kĩ năng, năng lực giải quyết những 
vấn đề trong thực tế. Thông qua bài tập học sinh cũng được đo lường về trình độ 
kiến thức, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. (Nghĩa là bài tập còn là 
phương tiện để kiểm tra đánh giá kết quả học tập bộ môn của học sinh) 
Trên cơ sở vị trí và tác dụng của bài tập trong dạy học làm văn chúng tôi 
nhận định rằng: Để rèn luyện tốt kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị 
luận cho học sinh lớp 8, vấn đề trọng tâm là phải xây dựng được hệ thống bài 
tập và phải sử dụng được hệ thống bài tập đó vào thực tiễn dạy học. Đây là loại 
kĩ năng khó, phức tạp nhưng có ý nghĩa quyết định sự thành công của bài văn 
nghị luận xét trên quan điểm giao tiếp. 
1.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập 
Khi xây dựng hệ thống bài tập thực hành, rèn luyện các kĩ năng tạo lập văn 
bản nói chung, rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận nói 
riêng cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau: 
Nguyên tắc 1: Hệ thống bài tập phải bám sát mục tiêu môn học 
Mục tiêu là điểm xuất phát và chi phối toàn bộ các yếu tố khác trong một 
qui trình dạy học. Bài tập vừa là nội dung vừa là công cụ kiểm tra đánh giá. Vì 
thế xây dựng hệ thống bài tập vừa phải chú ý bám sát mục tiêu chung của giáo 
dục, của môn học vừa phải chú ý bám sát mục tiêu riêng của từng bài học cụ thể. 
Nguyên tắc 2: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính khoa học 
 Nguyên tắc này thể hiện ở tính chính xác, tính hệ thống của nội dung bài 
tập. Cụ thể là mỗi bài tập đưa ra phải đúng về tri thức, phải đủ về yêu cầu và 
phải nhất quán giữa các câu hỏi. 
Nguyên tắc 3: Hệ thống bài tập phải đảm bảo tính sư phạm 
 Đây là nguyên tắc có tính bắt buộc, đòi hỏi hệ thống bài tập phải bám sát 
nội dung chương trình và sách giáo khoa, hệ thống bài tập phải có tính kế thừa, 
nâng cao phù hợp với lứa tuổi, với trình độ học sinh, hệ thống bài tập phải đa 
dạng, hấp dẫn, có tác dụng gợi mở từ dễ đến khó, không áp đặt và phát huy được 
tính chủ động, sáng tạo của học sinh. 
Nguyên tắc 4: Hệ thống bài tập phải đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục. 
Nghĩa là phải thể hiện được tinh thần tích hợp. Phải phân hoá được sinh trong 
quá trình dạy học. 
Những nguyên tắc nêu trên là yêu cầu và định hướng để chúng tôi xây dựng 
hệ thông bài tập rèn kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm và thuyết minh 
trong văn bản nghị luận. 
 21
2. Xây dựng hệ thống bài tập rèn luyện kĩ năng đưa yếu tố biểu cảm 
vào văn nghị luận 
 Hệ thống bài tập đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận được tôi xây 
dựng thành 3 nhóm chính. 
Nhóm 1: Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố biểu cảm 
trong văn nghị luận. 
Nhóm 2: Bài tập tạo lập văn bản nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm. 
Nhóm 3: Bài tập phát hiện và chữa lỗi về kĩ năng sử dụng yếu tố biểu cảm 
trong văn nghị luận. 
Trong 3 nhóm bài tập nêu trên, nhóm bài tập thứ 2 được chúng tôi quan 
niệm là nhóm bài tập cần được tổ chức rèn luyện nhiều và lâu dài, bởi mục tiêu 
của dạy học làm văn lớp 8 là hình thành năng lực tạo lập văn bản nghị luận cho 
học sinh. Nhóm bài tập 1 là cơ sở để thực hiện nhóm bài tập 2 và nhóm bài tập 
3 là phương tiện để củng cố hoàn thiện cho nhóm bài tập 2. Sau đây là sơ đồ 
(mô hình chung) của hệ thống bài tập rèn kĩ năng sử dụng phương thức biểu cảm 
và thuyết minh trong văn bản nghị luận: 
 22 
Hệ thống bài tập 
Đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận 
Bài tập nhóm 1 
Nhận biết và phân tích tác dụng 
Bài tập nhóm 2 
Tạo lập văn bản 
Bài tập nhóm 3 
Phát hiện và chữa lỗi 
Đoạn văn 
 nghị luận 
Văn bản 
nghị luận 
Đoạn văn 
nghị luận 
Văn bản 
nghị luận 
Lỗi không 
sử dụng 
Lỗi sử dụng 
không hợp lí 
Đoạn văn nghị 
luận xã hội 
Đoạn văn nghị luận 
văn học 
Bài văn nghị luận xã 
hội 
Bài văn nghị luận 
văn học 
 23 
2.1. Bài tập nhóm 1: Nhận biết và phân tích tác dụng của các yếu tố 
biểu cảm trong bài văn nghi luận 
Mục đích của bài tập nhóm 1: Giúp học sinh nắm vững đặc trưng cơ bản 
của văn bản nghị luận là tác động đến người đọc bằng cả lí trí và tình cảm; 
Giúp học sinh xác định được các yếu tố biểu cảm sử dụng trong bài văn (đoạn 
văn) nghị luận và phân tích được tác dụng của các yếu tố biểu cảm đó trong 
việc nâng cao hiệu quả thuyết phục của văn bản nghị luận 
Nội dung của bài tập nhóm 1 gồm 2 phần: 
Phần dẫn ngữ liệu: Đây là phần quan trọng quyết định sự thành công của 
bài tập nhóm 1, vì thế tôi đã lựa chọn những ngữ liệu điển hình là đoạn văn và 
bài văn nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu cảm và thuyết minh. 
Phần trình bày yêu cầu: Phần này gồm 3 yêu cầu chính khi luyện tập 
thực hành: Thứ nhất là yêu cầu xác định nội dung nghị luận; Thứ 2 là yêu cầu 
xác định các yếu tố biểu cảm đựơc đưa vào bài nghị luận; Thứ 3 là yêu cầu 
phân tích được tác dụng của những yếu tố biểu cảm đó. 
Ngoài ra tôi đề xuất thêm phần hướng dẫn làm bài tập: Đây là phần nêu 
những gợi ý cho học sinh khi làm bài tập. 
Các dạng bài tập cụ thể của nhóm 1: Để tích hợp với các bài học về nghị 
luận xã hội và nghị luận văn học trong chương trình làm văn 8, tôi chia bài 
tập nhóm 1 thành 2 dạng cụ thể: (1) Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng 
của yếu tố biểu cảm trong đoạn văn nghị luận; (2) Bài tập nhận biết và phân 
tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận. 
2.1.1. Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong 
đoạn văn nghị luận 
Bài tập 1: 
Ngữ liệu: 
"Ngày còn nhỏ, tôi đã được nghe một câu chuyện rất xúc động. Chuyện 
kể về một cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời 
em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi tay ram ráp 
nhăn nheo nhưng hiền dịu và ấm áp. Cậu kết luận răng: bà ngoại là người 
phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, 
phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi đó 
chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có 
thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?" 
Yêu cầu: Hãy đọc đoạn văn và cho biết cảm xúc của em? Cảm xúc đó 
được khơi gợi từ những yếu tố nào trong đoạn văn? Hãy chỉ ra yếu tố đó và 
 24 
phân tích tác dụng biểu đạt của chúng? Theo em, đoạn văn đó thuộc kiểu văn 
bản gì, vì sao? 
Hướng dẫn làm bài tập: 
Trình bày cảm xúc của mình khi đọc đoạn văn: Cảm xúc ấy là cảm giác 
xúc động dưng dưng nước mắt... khi đọc đoạn văn. 
Xác định yếu tố biểu cảm: Cảm xúc được gợi lên từ câu chuyện xúc 
động về cậu bé nghèo với bài văn tả mẹ. Đó là hình ảnh cậu bé nghèo với tình 
yêu thương vô hạn dành cho mẹ (là người bà ngoại của em) mà tác giả đã kể 
ra bằng tất cả tình cảm yêu thương, trân trọng, ngưỡng mộ chân thành nhất. 
Cảm xúc ấy còn gợi lên từ ý kiến nhận định của tác giả về bài văn lạc đề, phải 
về nhà viết lại: Đó mới chính là tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình 
yêu thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, 
tình cảm nào thiêng liêng hơn thế? Câu hỏi tu từ khép lại đoạn văn, chứa chất 
biết bao tình cảm dâng lên nghẹn ngào! Như vậy, biểu cảm đâu phải là bằng 
những từ ngữ câu văn mĩ miều mà biểu cảm phải bằng chính cảm xúc chân 
thành của người viết, bằng sự diễn đạt giản dị và chân thật nhất. 
Mặc dù đoạn văn chứa đầy tình cảm, nhưng nó vẫn không phải là đoạn 
văn bản biểu cảm. Mà nó là một đoạn văn nghị luận. Vì mục đích của đoạn 
văn không phải là bộ lộ cảm xúc. Mục đích của đoạn văn là trình bày ý kiến 
quan điểm về bản chất của thành công. Với tác giả, thành công của cậu học 
sinh nghèo ấy, không phải là bài văn viết đúng, được điểm cao, mà là bài văn 
chứa đầy tình yêu thương, cất lên từ đáy lòng. Bản chất của thành công là như 
vậy, là nói lên được lòng mình một cách chân thành! 
Bài tập 2: 
Ngữ liệu: 
 "Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô 
Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. {...} Quái thay là 
Ngô Tất Tố. Mới xem ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ như mọi người 
khác thích chó, yêu chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương 
cunggx không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te 
cho chó ăn cơm, vợ hắn và hắn bù khú {...} với nhau trên câu chuyện chó con. 
ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. 
Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới 
càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra." 
Yêu cầu: Hãy đọc đoạn văn và cho biết thái độ của người viết đối với tác 
giả và nhân vật của "Tắt đèn"? Thái độ đó thể hiện ở những yếu tố biểu cảm 
nào? Theo em, đoạn văn thuộc kiểu văn bản gì? Vì sao? 
 25 
Hướng dẫn làm bài tập 
Thái độ của tác giả đối với nhân vật của "Tắt đèn" (vợ chồng Nghị Quế) 
là: khinh bỉ và căm ghét. Thái độ đó thể hiện ở cách lập luận: lúc đầu người 
đọc cứ tưởng vợ chồng Nghị Quế "cũng chỉ như mọi người" ... về sau, tác giả 
đột ngột bóc trần bản chất chó đểu của chúng ra, khi chúng "giở giọng chó má 
với mẹ con chị Dậu". 
Thái độ của tác giả đối với nhà văn của "Tắt đèn" (Ngô Tất Tố) là: khâm 
phục tài năng kể chuyện của Ngô Tất Tố. Thái độ đó bộc lộ bằng những lời 
nhận định ngợi ca: "Quái thay là Ngô Tất Tố; Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ!" 
Đoạn văn trên thuộc văn bản nghị luận, có nội dung bàn luận về nhân vật 
và tài năng kể chuyện của nhà văn Ngô Tất Tố trong tác phẩm "Tắt đèn". Sở 
dĩ ta biết được điều đó là vì tác giả đã sử dụng thao tác lập luận tương phản 
khi phân tích hành vi lúc đầu và lúc cuối của vợ chồng Nghị Quế, từ đó vạch 
trần bản chất chó đểu của chúng. 
2.1.2. Bài tập nhận biết và phân tích tác dụng của yếu tố biểu cảm trong 
bài văn nghị luận 
Bài tập 1: 
Ngữ liệu: HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH TRÊN ĐƯỜNG... CHÚNG 
TA ĐI 
"Xin mời các quí vị và các bạn theo dõi chuyên mục An toàn giao 
thông", tiếng phát thanh viên của Đài Truyền hình Việt Nam vang lên quen 
thuộc. Không biết bao lần tôi đã nghe chuyên mục này trong bản tin Thời sự 
trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là chương trình Chào buổi sáng 
của Đài Truyền hình Việt Nam. Và dừng như lần nào cũng cập nhật một loạt 
thông tin chẳng mấy vui vẻ như: vi phạm luật giao thông, tai nạn nghiêm 
trọng, số người thiệt mạng, tổng số thiệt hại... 
An toàn giao thông là hạnh phúc của mỗi người. Đó không chỉ là khẩu 
hiệu mang tính kêu gọi, hô hào mà chính là cuộc sống đích thực của con 
người. Vì sao hằng ngày chúng ta nghe đến thuộc lòng, nhìn đến quen mắt 
câu nói đó mà thực trạng giao thông đô thị vẫn không mấy tiến bộ? Chỉ cần 
mỗi ngày hai lần đi - về cùng dòng người và xe cộ qua các nút giao thông, khi 
không có "bóng chú áo vàng"ở đó, là chắc chắn bạn sẽ chứng kiến vô số hành 
vi bất chấp luật lệ: đèn vàng, người ta vượt, rồi đến đèn đỏ, người ta vẫn cố 
vượt; người ta tranh thủ tạt ngang, rẽ ngược, cứ ngang nhiên xe máy trên 
đường một chiều (để "tiết kiệm" xăng xe hay thời gian?); lại có người đang 
bon bon thẳng hướng, bỗng sực nhớ rẽ phải, thế là đột ngột ngoặt sang bên 
cạnh chẳng cần xi nhan, cũng chẳng cần biết người đi phía sau sẽ không kịp 
 26 
phản xạ... Vẫn còn đó nỗi đau không thể nguôi quên, mất mát không thể bù 
đắp của những gia đình có người thân tử nạn vì sự thiếu ý thức an toàn giao 
thông. Điều đáng buồn là ở chỗ, không chỉ những người đi xe máy, xe đạp 
thiếu ý thức an toàn mà ngay cả những lái xe chuyên nghiệp, những tài xế tắc 
xi, xe tải, xe buýt cũng có người thiếu ý thức nghề nghiệp, coi nhẹ nhân 
mạng. Có một thời báo chí, đài phát thanh, truyền hình liên tiếp đưa thông tin 
về những vụ tai nạn chết người do xe buýt phóng nhanh vượt ẩu "cướp 
đường" gây ra. Những cái chết không đáng chết! Những sự mất mát phi lí! 
Đến bao giờ chúng ta mới thoát khỏi nỗi đau do sự thiếu ý thức an toàn giao 
thông của chính chúng ta gây ra? 
Mấy năm gần đây, vấn đề an toàn giao thông đã và đang trở thành "điểm 
nóng" như một "quốc nạn"ở nước ta. Nhiều bộ, ngành, tổ chức, cá nhân cùng 
kết hợp tuyên truyền, giải thích vận động trên tất cả các phương tiện thông tin 
đại chúng về an toàn giao thông. Bộ Giao thông vân tải, Bộ Công an, Bộ Văn 
hoá - Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo... tất cả cùng "vào cuộc" tuyên 
truyền cổ động cho giao thông an toàn. Chính phủ thành lập riêng một uỷ ban 
an toàn giao thông quốc gia. Vô số những bài báo, phóng sự, bài luận dự thi, 
pa nô, áp phích, những cuộc triển lãm, những hoạt động quảng cáo đa dạng 
diễn ra mọi lúc mọi nơi nhằm nâng cao ý thức an toàn giao thông cho người 
dân. Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Trái Đất, các diễn viên điện ảnh, ca sĩ, nhạc 
sĩ... đều hăng hái tham gia tuyên truyền an toàn giao thông Việt Nam. Vì sao 
hoạt động cổ vũ giao thông an toàn lại rầm rộ như vậy? Câu trả lời thiết nghĩ 
thật đơn giản, bởi các hành vi vi phạm an toàn giao thông dường như không 
có chiều hướng ngừng tái diễn và hậu quả của chúng vẫn hằng ngày dóng lên 
những tiếng chuông cảnh báo ghê rợn. Theo thống kê, năm 2002, cả nước có 
13000 nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông. Thống kê mới nhất của Ngân 
hàng Thế giới - theo báo điện tử Vietnamnet ngày 18 tháng tư năm 2007 - 
hằng năm Việt Nam thiệt hại khoảng 850 triệu đô la do tai nạn giao thông, tổn 
thất kinh tế đó chiếm 0,5% tổng sản lượng quốc gia. Điều đáng suy nghĩ là 
thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 đến 25 chiếm 20% dân số Việt Nam nhưng lại 
chiếm 40% số vụ "tai nạn giao thông đặc biệt ngiêm trọng". Đành rằng còn 
nhiều vấn đề không an toàn do cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ gây ra, chẳng hạn: 
đường xá chật hẹp; việc cải tạo thường xuyên dở dang đã tạo nên nhiều "cái 
bẫy" nguy hiểm: nắp cống trồi lên giữa lòng đường, "ổ gà, ổ voi" mọc giữa 
phố, hố ga thiếu nắp, đường phố thiếu đèn điện... biển báo giao thông bị cành 
cây, biển quảng cáo che lấp, vỉa hè bị lấn chiếm, hệ thống đường đi bộ qua 
các nút giao thông rất thiếu... Nhưng "tiên trách kỉ, hậu trách nhân", nguyên 
 27 
nhân đầu tiên bao giờ cũng chính vẫn ở sự thiếu ý thức chấp hành luật của 
mỗi chúng ta. Từ tai nạn đường sắt, đường thuỷ cho đến tai nạn đuờng bộ, 
theo thống kê cho thấy, nguyên nhân chính vẫn ở ý thức con người. Có những 
đoạn đường sắt "nguy hiểm chết người" bởi bị tháo trộm ốc vít hoặc hành 
khách vô tội bị ném gạch đá không thương tiếc... thật đáng buồn do mưu sinh, 
một số kẻ đang tâm kiếm sống bằng "nghề rải đinh" dọc quốc lộ, tỉnh lộ, thậm 
trí đường cao tốc . Tại Hội nghị về giao thông các nước khu vực Đông Á tổ 
chức năm 2005, trong báo cáo của trường Đại học Giao thông vận tải, ba 
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tai nạn giao thông đường bộ - loại tai nạn giao 
thông chủ yếu ở nước ta đó là: chạy quá tốc độ chiếm 34%, vượt tuyến ẩu, bất 
cẩn chiếm 22% và lái xe say xỉn chiếm 11%. Địa điểm diễn ra tai nạn, trên 
quốc lộ chiếm 50%, trong thành phố chiếm 31%, ở các tỉnh chiếm 12%. 
Trong đó đáng chú ý là 70% số vụ tai nạn liên quan đến xe gắn máy 2 bánh, 
30 % còn lại do ô tô 4 bánh gây nên, nam giới là "thủ phạm" của 81% số vụ 
tai nạn. Tình trạng một số thanh niên phóng nhanh, vượt ẩu, xe máy kẹp 3-4 
lạng lách, đánh võng, rú ga bóp còi inh ỏi, thậm chí tổ chức đua xe trái phép 
với những "pha biểu diễn" nguy hiểm như: bỏ tay lái, bốc đầu xe, quẹt chân 
chống...vẫn tái diễn trong thành phố. 
Ai đó đôi khi diễu cợt các "anh hùng núp" không đứng ngay giữa ngã tư 
hoặc ngay đầu các lối cấm rẽ mà đứng ở phía xa khuất rồi bất chợt xuất hiện 
phạt vi cảnh những người phạm luật. Riêng tôi lại rất tán đồng với "biện pháp 
phục kích" vất vả của các chiến sĩ cảnh sát giao thông. Đó là một trong những 
chiến 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_luu_y_khi_ren_luyen_ki_nang_dua.pdf