SKKN Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi nhằm nâng cao chất lượng khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học

SKKN Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi nhằm nâng cao chất lượng khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học

Muốn thực hiện được các giải pháp trên theo tôi cần có:

- Lớp học đảm bảo diện tích, sạch sẽ, thoáng mát, an toàn.

- Bản thân phải rèn luyện nâng cao trình độ, nắm vững phương pháp giáo dục mầm non.

- Chăm chỉ nghiên cứu tài liệu, tạp chí giáo dục mầm non.

- Lập kế hoạch rõ ràng, có định hướng cụ thể theo từng chủ đề.

- Tận dụng nguyên vật liệu có sẵn tại địa phương.

d. Mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp

Giải pháp và biện pháp có mối quan hệ rất chặt chẽ.Các giải pháp đưa ra thực hiện được, có hiệu quả là do đã tuân thủ các biện pháp. Bản thân phải tìm tòi, nghiên cứu mới nâng cao trình độ chuyên môn tìm ra những điểm hay, sáng tạo nhằm tìm ra những phương pháp áp dụng vào việc tổ chức hoạt động Khám phá khoa học. Như vậy mới giúp trẻ lĩnh hội tốt kiến thức.

 

doc 18 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1403Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm gây hứng thú cho trẻ 5 tuổi nhằm nâng cao chất lượng khi tổ chức hoạt động khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học ở trường phổ thông sau này. Việc cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, cuộc sống, người lớn và trẻ em khác giúp trẻ phát triển những xúc cảm, tình cảm, thẩm mỹ, đạo đức tích cực, thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, xã hội. Khám phá, hoạt động trong môi trường xung quanh giúp trẻ phát triển về thể chất và các kỹ năng lao động. Có thể nói làm quen với môi trường xung quanh là một phương pháp quan trọng, chủ yếu để trẻ phát triển toàn diện. Để chuẩn bị cơ sở và tâm thế cho trẻ vào học ở trường phổ thông, việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh chỉ có thể hiệu quả khi căn cứ trên đặc điểm học của trẻ mầm non. Trẻ mầm non học qua bắt chước, qua trải nghiệm, thí nghiệm; qua sự tương tác, chia sẻ kinh nghiệm; qua tư duy suy luận và vui chơi. Tạo dựng môi trường chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp, kích thích trẻ hoạt động tích cực trong môi trường xung quanh sẽ thúc đẩy sự phát triển của trẻ. Cơ sở khoa học của việc cho trẻ làm quen với thiên nhiên là tất cả vũ trụ với giới hữu sinh và vô sinh trong đó. Việc cho trẻ làm quen với thiên nhiên có thể dựa trên các cơ sở khoa học khác nhau, trong đó sinh vật học và sinh thái học là hai cơ sở khoa học cơ bản. Sinh vật học là khoa học nghiên cứu các cơ thể sống và các hiện tượng của giới hữu sinh. Theo quan điểm sinh vật học, tất cả các cơ thể sống (giới hữu sinh) khác với giới vô sinh ở một loạt các dấu hiệu và tính chất chung. Đó là đặc điểm cấu tạo, sự trao đổi chất, sự phát triển, tăng trưởng, sinh sản, phản ứng tự vệ và cơ chế tự điều chỉnh. Bất kỳ một cơ thể sống nào dù là động vật hay thực vật đều có các bộ phận, các cơ quan với các chức năng duy trì sự sống, sự phát triển và sinh sôi, nảy nở. Động vật và thực vật đều có các dấu hiệu và tính chất đặc trưng cho cơ thể sống nhưng giữa chúng cũng có những điểm khác nhau: Thức ăn của động vật là các chất hữu cơ còn thực vật tự tạo ra chất hữu cơ từ nước và khí cacbonnic dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Phần lớn động vật đều di chuyển và vận động rất tích cực, chúng có các cơ quan vận động; còn thực vật không di chuyển hoặc di chuyển rất ít. Khoa học về điều kiện tồn tại của các cơ thể sống trong mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau và với các điều kiện môi trường gọi là sinh thái học. Trong những năm gần đây diễn ra sự thay đổi quan điểm trong tự nhiên học, ngoài cơ sở sinh vật học, bổ sung thêm quan điểm sinh thái học về tự nhiên, thế giới đồ vật và chính con người. Khái niệm trung tâm trong sinh thái học có thể sử dụng trong việc xây dựng phương pháp luận cho trẻ làm quen với môi trường thiên nhiên. Đó là mối quan hệ qua lại giữa cơ thể sống với các điều kiện môi trường. Bất kỳ một cơ thể sống nào cũng có các nhu cầu mà chỉ có các yếu tố của môi trường bên ngoài mới có thể thoả mãn được. Đó trước hết là nhu cầu về thức ăn, nước uống, không khí... thông qua quá trình trao đổi chất tạo ra năng lượng giúp cơ thể tồn tại và phát triển. Mỗi cá thể trong quá trình sống của mình đều phải trải qua các giai đoạn phát triển nhất định và ở mỗi giai đoạn cơ thể có các nhu cầu khác nhau cần được thoả mãn. Khái niệm thứ hai của sinh thái học là sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi trường. Sự thích nghi của cơ thể sống với các điều kiện môi trường biểu hiện ở tất cả các loài động vật và thực vật, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống như vận động, thức ăn, phương thức bảo vệ, sinh sản, trong đặc điểm cấu tạo ngoài, trong sự thay đổi theo mùa v.v... Khái niệm tiếp theo của sinh thái học là quần thể sinh vật mà chúng ta quen gọi bằng từ ngữ thông dụng như rừng, đồng cỏ, thảo nguyên, đầm, hồ v.v... Trong mỗi quần thể, thành phần chính là các loại động, thực vật có cùng nhu cầu đối với các điều kiện môi trường. Những sinh vật sống trong một quần thể có một số các đặc điểm bên ngoài giống nhau mặc dù chúng không cùng họ, cùng loài. Ví dụ: những con vật sống dưới nước thường có vây, đuôi; những con vật sống trên không thường có cánh. Mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật chính là sự phụ thuộc thức ăn - trong sinh thái học gọi là chuỗi thức ăn. Một trong những khái niệm sinh thái cần thiết cho việc xây dựng phương pháp luận làm quen với thiên nhiên là mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên. Con người vừa là nhân tố tích cực trong việc giữ gìn, cải tạo, bảo vệ môi trường thiên nhiên cũng vừa là nguyên nhân cơ bản của sự phá huỷ môi trường, sự tuyệt chủng của một số loài động, thực vật, phá vỡ cân bằng sinh thái trong thiên nhiên. Như vậy, quan điểm sinh vật học và các khái niệm của sinh thái học nêu trên được trình bày phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ là cơ sở để xây dựng nội dung và phương pháp cho trẻ làm quen môi trường xung quanh.
II.2. Thực trạng 
a. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi : 
Được sự quan tâm của Phòng GD - ĐT, thường xuyên tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên .
Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Tìm tòi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết dạy vào hoạt động vui chơi của trẻ .
Trẻ ở gần trường nên rất chăm đi lớp .
* Khó khăn :
Cơ sở vật chất thiếu thốn, phòng học chật hẹp, đồ dùng phục vụ tiết dạy còn rất thiếu thốn như : những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật ...
Góc thiên nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú, đồ chơi, đồ dùng còn ít ...
Số trẻ ở lớp chưa qua nhóm lớp nhà trẻ, lớp 4 -5 tuổi chiếm đa số, khả năng trẻ tiếp thu chậm .
Vốn hiểu biết về môi trường xã hội còn hạn chế .
Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn nghèo nàn, đồ chơi của trẻ cũng rất ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát .
b.Thành công – hạn chế 
* Thành công 
Đề tài đã nêu lên được một số phương pháp, thủ thuật làm tăng hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động khám phá khoa học.
* Hạn chế 
Đề tài phạm vi nghiên cứu chưa rộng.
c. Mặt mạnh – mặt yếu
* Mặt mạnh 
- Đề tài đã tập trung khai thác, nêu bật lên những phương pháp, cách làm gần gũi với các giáo viên đứng lớp.
Các phương pháp dễ hiểu, dễ áp dụng trong thực tế
* Mặt yếu
- Phạm vi nghiên cứu hạn chế nên chưa thống kê hết kết quả thử nghiệm đề tài trên toàn trường.
d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
- Cơ sở vật chất còn thiếu 
- Một số lớp giáo viên đã lớn tuổi hạn chế về công nghệ thông tin
- Địa bàn 2/3 là con em đồng bào dân tộc chưa có sự quan tâm nhiều từ phía phụ huynh
e.Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế - xã hội của đất nước ta có sự phát triển không ngừng làm cho ngành Giáo dục nói chung và ngành học mầm non nói riêng cũng dần từng bước củng cố và phát triển.
 Để chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào thời đại của nền văn minh trí tuệ, thời đại của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, và mục đích chung của Giáo dục mầm non là phát triển tất cả các khả năng của trẻ, hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu của nhân cách con người, một mặt đáp ứng các nhu cầu phát triển tổng thể hài hoà của trẻ về các mặt: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức,thẩm mỷ, tình cảm-xã hội. Mặt khác chuẩn bị sẵn sàng cho trẻ vào lớp 01.Trường Mầm non là nơi cung cấp những kiến thức đầu tiên cho trẻ.Trong những hoạt động được tổ chức thì hoạt động khám phá khoa học đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu trên.Vì vậy việc tổ chức hoạt động Khám phá khoa học có hiệu quả cao là vấn đề cần thực hiện nghiêm túc trong trường Mầm non.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Các giải pháp, biện pháp được nêu ra nhằm hướng cho giáo viên có được sự định hướng tạo hứng thú cho trẻ trong việc ổ chức hoạt động Khám phá khoa học cho trẻ.
- Hướng trẻ tham gia hoạt động trong một môi trường thân thiện, có tác động tích cực từ hình ảnh cụ thể đến tư duy lô gic.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Qua khảo sát thực tế tôi luôn suy nghĩ, tìm ra những biện pháp triển khai để trẻ được hoạt động cá nhân một cách tích cực, kiến thức của trẻ được bổ sung và củng cố phong phú, giúp trẻ phát hiện ra nhiều điều mới lạ hơn.Nội dung và cách thức thực hiện như sau:
1.Xây dựng cơ sở vật chất 
Đồ dùng, trực quan, đồ chơi phục vụ tiết học như : Bàn, ghế, bảng, tranh, mô hình,các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu ... Cần phải đầy đủ cho cô và trẻ cùng hoạt động .
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích hứng thú, tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng đồ thật, vật thật hoặc hình ảnh động cho tiết học sinh học .
Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi đề nghị với BGH nhà trường trang bị thêm thiết bị, đồ dùng dạy học như : Bảng, tranh ảnh, lôtô, và với mỗi tiết cần có đồ dùng để phục vụ thật đầy đủ .
Với các bậc phụ huynh vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh, truyện, đặc biệt là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả,... Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về môi trường xung quanh của trẻ . 
Với chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương như : vải vụn, rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm tranh ảnh cho tiết dạy. Sưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò ... để bổ sung đồ chơi của trẻ . 
2. Bổ sung đồ chơi 
Được nhà trường cấp cho tranh dạy môi trường xung quanh, lô tô các loại...Ngoài ra tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh ,hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá ... Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ KPMTXQ. Tận dụng các hình ảnh ở lịch, bìa, hoạ báo ,ảnh cũ ... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi .
Tôi tận dụng bìa các tông có dây tạo các con vật. Sau đó để trẻ tự điều khiển, để trẻ biết con vật này có chân hay có cánh, có chân thì biết chạy có cánh thì biết bay .
Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây ,hoa lá, hoặc các sản phẩm nặn về đồ vật xung quanh trẻ, các sản phẩm tạo hìn , tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong phú của trẻ về MTXQ .
Tôi sưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình ảnh minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ rèn luyện ngôn ngữ.Từ đó tư duy của trẻ cũng phát triển .
Với những đồ dùng, đồ chơi được phát và tự làm khi tôi sử dụng trong hoạt động trẻ rất hào hứng, quan sát tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô yêu cầu, so sánh và phân loại rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ phát triển, trẻ thuộc rất nhiều thơ ca dao, tục ngữ , đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa ,các loại quả ... Tư duy của trẻ phát triển nhanh và chính xác hơn .
3.Xây dựng góc “Bé với thiên nhiên ” 
Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối : Nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước, ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về thiên nhiên , các tranh ảnh về thế giới tự nhiên .
Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: cây vạn niên thanh, cây hoa hồng  Dàn dây leo .
Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt  Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách ( có que chỉ cho việc đọc sách ) Đọc sách theo từng chữ , từng dòng, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt  Có gắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ được chơi và tự làm được những sản phẩm từ những đồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò  vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ làm đồ dùng đồ chơi rất phong phú vừa rẻ tiền mà dễ kiếm 
Các tranh, lô tô đều được phân loại để ở giá giúp trẻ dễ lấy, dễ tìm .
Ví dụ : Tôi phân loại lô tô : 
- Lô tô con vật xếp vào một ô .
- Lô tô các loại quả xếp vào một ô 
Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp gọn gàng và dễ kiếm .
4.Làm giàu vốn hiểu biết về môi trường xung quanh
Biểu tượng về thế giới xung quanh đến với trẻ qua nhiều hình thức: Câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đồng dao, tranh ảnh, đồ vật, vật thật  Giúp trẻ không bị nhàm chán, dễ tiếp thu giúp trẻ ghi nhớ, chính xác hoá thành biểu tượng của mình .
Ví dụ : Cho trẻ làm quen với con cua : 
“ Con gì tám cẳng hai càng.
Đầu thì không có bò ngang cả đời”
Trẻ đoán ngay được đó là con cua . Nhưng trong đầu trẻ biểu tượng về con cua được chính xác là con cua có hai càng to, có tám chân, lại bò ngang nữa .
Cho trẻ làm quen với con cá: 
“Con gì có vẩy có vây
Không đi trên cạn mà đi dưới hồ ”
Trẻ trả lời đó là con cá. Nhưng trẻ lại biết thêm con cá có đặc điểm, có vây, có đuôi, vẩy, cá sống dưới hồ nước
Từ đó trẻ có thể so sánh xem con cá và con cua có đặc điểm gì giống nhau, có đặc điểm gì khác nhau ? Sau đó trẻ có thể phân nhóm chúng.
Ngoài ra tôi còn dùng cách khác để vào bài cung cấp biểu tượng thế giới xung quanh cho trẻ , qua hình ảnh mô hình, con vật thật 
5. Rèn trẻ thông qua tiết dạy 
Vì trẻ đang trong giai đoạn làm quen với môi trường nên khi tổ chức hoạt động với mỗi mẫu vật, hay tranh ảnh, tôi đều cho trẻ quan sát kỹ đưa ra nhiều ý kiến nhận xét để tìm ra đầy đủ và chính xác đặc điểm vật mẫu .
Ví dụ : Làm quen với con cua, trẻ đã tìm được đặc điểm của con cua có hai càng to, tám chân  Sau đó đặt câu hỏi gợi mở “ các con có biết con cua nó đi như thế nào không ? ” Trẻ trả lời con cua bò ngang, tôi dùng que chỉ rõ, cua có mai cua, yếm cua cứng để bảo vệ cơ thể chúng.
Như vậy không những trẻ biết được cua có những đặc điểm gì mà trẻ còn biết môi trường sống của chúng, cách vận động ,(Đi như thế nào ? ) các bộ phận cơ thể ra sao. Nắm rõ đặc điểm sự vật từ đó trẻ so sánh rõ ràng và phân loại cũng rất tốt .
Trong hoạt động Khám phá kha học tôi lồng ghép tích hợp các môn khác như : Toán, âm nhạc, tạo hình, văn học  để trẻ thêm hứng thú, ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn .
Ví dụ : Trong tiết dạy làm quen với động vật sống dưới nước .
Tôi cho trẻ thi “ đố vui ” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố đội bạn . 
“ Nhà hình xoắn nằm ở dước ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đi đóng cửa nghỉ ngơi một mình .”
( con ốc )
Con gì đầu bẹp .
Hai ngạnh hai bên
Râu ngắn vểnh lên
Mình trơn bóng nhoáng
( con cá trê)
Như vậy khi trẻ giải được câu đố trẻ rất vui hào hứng, kích thích tư duy , làm phong phú vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc . . Trong hoạt động tôi cũng lồng ghép toán sơ đẳng, LQ với con cua,cô và trẻ cùng đếm số chân cua .
Tôi sử dụng âm nhạc xen kẽ giữa các phần chuyển tiếp để hoạt động thêm hào hứng, sôi động .
Trong khi tổ chức tôi cũng kích thích khả năng sáng tạo nghệ thuật của trẻ bằng cách gắn hoặc dán để hoàn thiện bức tranh .
Tôi thường tổ chức các trò chơi động, tĩnh đan xen nhau để tạo hứng thú, vui tươi, trẻ thêm phần hoạt bát nhanh nhẹn .
Với mỗi hình ảnh cho trẻ làm quen đều có từ tương ứng ở dưới để dễ nhận biết được chữ cái mình đã học .
6.Nâng cao kỹ năng quan sát , so sánh và phân loại ở trẻ 
Biết được kỹ năng và nghệ thuật dạy trẻ Khám phá khoa học của bản thân chưa thật sáng tạo, nên bản thân tôi khắc phục bằng cách : Thường xuyên học tập bạn bè đồng nghiệp, luyện tập giọng nói sao cho thật truyền cảm, tác phong dạy nhẹ nhàng, linh hoạt .
Về kiến thức phải nắm vững phương pháp dạy, cung cấp cho trẻ kiến thức dù đơn giản nhưng phải chính xác .
 Tận dụng mọi thời gian để tự rèn luyện mình, dù ở lớp hay ở nhà .
Sử dụng bộ tranh cho trẻ Khám phá khoa học, theo nội dung từng bài, đúng chương trình .
 Luôn năng nghe, tiếp thu ý kiến nhận xét của Chuyên môn, đồng nghiệp sau mỗi tiết dạy, để từ đó phát huy những mặt tốt, khắc phục những hạn chế .
+ Về cách tiến hành :
Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tôi tìm những cách mở đầu hoạt động khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ. Có thể dùng câu đố, bài hát  Để trẻ nhận biết đối tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật và mô hình .
Với mỗi đối tượng trẻ cho làm quen, trẻ cần được quan sát kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen như vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động sao cho phù hợp với chúng .
Sau khi trẻ được làm quen 3 – 4 đối tượng( trong 1bài ) tôi cho trẻ so sánh các đối tượng, để trẻ có thể dễ ràng hoàn thành nhiệm vụ phân loại trong các trò chơi .
Tổ chức các trò chơi trong hoạt động, tôi tổ chức đan xen trò chơi động với trò chơi tĩnh, làm cho không khí tiết dạy vui tươi hào hứng và hiệu quả .
Trong các tiêt học khác tôi cũng lồng ghép kiến thức môi trường xung quanh để củng cố vốn hiểu biết về biểu tượng đã có của trẻ 
 Ví dụ : Trong hoạt động làm quen với chữ cái i, t, c 
Cô đưa tranh hình “con voi ” Cô và trẻ cùng đàm thoại về con voi để trẻ biết được hình dạng, môi trường sống, thức ăn và cách vận động của nó. 
Trong hoạt động khác của trẻ , tôi có thể cung cấp kiến thức cũ, tận dụng mọi lúc, mọi nơi để giáo dục trẻ .
Trong hoạt động góc, trẻ được chơi ở góc thiên nhiên( tưới cây, nhặt lá, bắt sâu, xem sách về môi trường xung quanh) . Đặc biệt trẻ được chơi nhiều đồ vật thật, khi được hoạt động nhiều với đồ vật thật, trẻ được nhìn, sờ, nắn ,ngửi , Từ đó có hình ảnh trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ , không những thế mà tôi còn phát huy tính sáng tạo của trẻ bằng cách cho trẻ làm tranh từ nguyên liệu thiên nhiên như : Hoa, lá ép khô, vỏ cây, coọng rơm, vỏ thuỷ sản 
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại  khi trẻ quan sát tôi hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn đối tượng đó .
Ví dụ : Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng , hướng trẻ nhận biết màu sắc cánh hoa . Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng cưa . Đưa hoa nên ngửi có mùi thơm .
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh .
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trờ , không những để trẻ khám phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường .Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục ATGT với trẻ tạo cho trẻ thói quen và ý thức khi tham gia giao thông . Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như : Đi trên đường không chạy, không nô đùa, đi bên tay phải , hoặc là nhìn những tín hiệu giao thông nhưng đã có sức ảnh hưởng rất to lớn.
7. Kết hợp giữa phụ huynh và cô giáo ..
Đối với trẻ mầm non dễ nhớ lại dễ quên .Vì thế tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ để phụ huynh và giáo viên đều hiểu được tính cách trẻ từ đó có hướng luyện thêm cho trẻ .
Cháu , cháu B rất thích đọc câu đố cho bố mẹ nghe .
Cháu C,cháu D rất hay hỏi về những gì lạ xung quanh .
 Động viên các cháu không chỉ biết bảo vệ môi trường xung quanh mà còn giữ gìn, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhỏ .
Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển tranh về con vật, cây cỏ  phù hợp với lứa tuổi .Trẻ được làm quen với hình ảnh, với chữ viết .
Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo giúp trẻ luỵên tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội phong phú, đa dạng hơn. Vì trẻ ở môi trường nông thôn nên ở nhà trẻ được tiếp xúc với nhiều thiên nhiên, cỏ cây hoa lá được bố mẹ thường xuyên cung cấp và củng cố những gì đã có thì hiệu quả việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là rất cao .
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Muốn thực hiện được các giải pháp trên theo tôi cần có:
- Lớp học đảm bảo diện tích, sạch sẽ, thoáng mát, an toàn.
- Bản thân phải rèn luyện nâng cao trình độ, nắm vững phương pháp giáo dục mầm non.
- Chăm chỉ nghiên cứu tài liệu, tạp chí giáo dục mầm non.
- Lập kế hoạch rõ ràng, có định hướng cụ thể theo từng chủ đề.
- Tận dụng nguyên vật liệu có sẵn tại địa phương.
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp
Giải pháp và biện pháp có mối quan hệ rất chặt chẽ.Các giải pháp đưa ra thực hiện được, có hiệu quả là do đã tuân thủ các biện pháp. Bản thân phải tìm tòi, nghiên cứu mới nâng cao trình độ chuyên môn tìm ra những điểm hay, sáng tạo nhằm tìm ra những phương pháp áp dụng vào việc tổ chức hoạt động Khám phá khoa học. Như vậy mới giúp trẻ lĩnh hội tốt kiến thức.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị 

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN Hà.doc