Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học

Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi, .

 Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự tin, tự lập, tự khẳng định qua việc học nhóm.

 

doc 16 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 8748Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc cho con trẻ. Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè, ... ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc giáo dục trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình hoặc có trẻ được chiều luôn làm theo ý mình chứ không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.
Những năm gần đây, nhiều trẻ thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp hoặc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng giao tiếp xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, vô cảm không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hòa nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, băn khoăn, trăn trở.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
 + Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống hiện nay.
Học tập là một nhu cầu cần thiết của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu hụt. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 4 trường tiểu học Lục Sơn, tôi nhận thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn. Kĩ năng giao tiếp, ứng xử của các em vẫn còn mang tính chất khuôn mẫu, chưa linh hoạt. 
Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) ở lớp 4C đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết quả như sau:
Tổng số học sinh
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
SL
%
SL
%
SL
%
25
4
16
7
28
14
56
Tổng số học sinh
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
25
9
36
16
64
Tổng số học sinh
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, khá phù hợp.
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi.
SL
%
SL
%
25
8
32
17
68
 + Thuận lợi, khó khăn khi dạy kĩ năng sống cho học sinh.
 Thuận lợi.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch cho từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban giám hiệu nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục học sinh. Các bậc phụ huynh cũng luôn quan tâm, tạo điều kiện cùng giáo viên tham gia các hoạt động của lớp. Chính vì thế mà tôi luôn cố gắng hết mình trong việc giáo dục, rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em luôn mạnh dạn, tự tin, có niềm tin vào cuộc sống, tin vào tương lai. Giúp các em phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với hiện tại. 
 Khó khăn
 a. Đối với giáo viên 
Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng và cần thiết của rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ về rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống cho học sinh. 
Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch, định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. 
 Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do tuổi nghề còn non nên giáo viên mới thường không an tâm công tác. 
 b. Đối với học sinh
 Trong các nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp ...
Các em học sinh vừa từ lớp một, hai, ba mới lên chưa làm quen với môi trường lớp 4. Vì các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè. Kĩ năng làm việc độc lập, thảo luận, chia sẻ với các bạn trong nhóm còn lung túng. Nhiều em chưa linh hoạt trong giao tiếp, trong học tập. Kĩ năng trình bày bài còn mang tính khuôn mẫu chưa biết tự tư duy, tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ, ...
 c. Đối với phụ huynh học sinh
Về phía cha mẹ học sinh luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là một số phụ huynh trong lớp thì quá nuông chiều con cái khiến trẻ có thói quen ỉ lại, không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, một số thì đi làm ăn xa để con ở nhà với anh, chị hoặc ông bà, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ, chỉ bảo con em trong các hoạt động cần thiết
 Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn nêu trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
 Kĩ năng sống được giáo dục ở nhà và ở trường, giáo dục trong các môn học. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách của mỗi con người. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho hoc sinh tiểu học là một việc làm cần thiết hơn bao giờ hết. Để có được hiệu quả nhất định thì chúng ta phải đề ra được những biện pháp cụ thể, đem lại hiệu quả. Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm tôi đã áp dụng một số biện pháp sau:
 * Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ, ý nguyện, ước nguyện trong tương lai cũng như mong muốn của giáo viên với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.
 * Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học và tài liệu giáo dục kĩ năng sống: Thực hành kĩ năng sống 4
Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi đã vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Thực hành kĩ năng sống; Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học; An toàn giao thông ... để giờ học các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
Trong chương trình lớp 4, Ở môn thực hành kĩ năng sống đã hướng dẫn cho các em các kĩ năng cơ bản và cần thiết như: Cách thể hiện cảm xúc; Cách vượt qua những khó khăn trong cuộc sống; Cách xử lí các tình huống; Hay là cách tránh sét khi gặp trời mưa dông; cách giúp đỡ người khác khi bi đuối nước. Rồi đến những kĩ năng tưởng chừng đơn giản như gấp quần áo, chuẩn bị đồ khi đi tham quan du lịch. Từ những bài học này các em sẽ tự trang bị cho mình những kĩ năng cơ bản để có thể tự giải quyết những khó khăn khi gặp phải. 
 Ví dụ: Khi dạy chủ đề 1: “ Cảm xúc của em” tổ chức cho các em tự xây dựng kịch bản và đóng vai thể hiện cảm xúc phù hợp. Từ đó giúp các em tự tin và có cách thể hiện cảm xúc phù hợp trong cuộc sống. Hoặc khi dạy chủ đề 2: “Khi em đi tham quan” hướng dẫn các em các bước gấp quần áo; Cách sơ cứu khi bị thương ... Từ những điều mà các em đã được trải nghiệm sẽ giúp các em linh hoạt hơn khi gặp phải những khó khăn trên.
Ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp như: Viết thư; Giới thiệu về địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng ghép cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài văn giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức, hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những kĩ năng sống. Thông qua các hoạt động học tập, trải nghiệm, hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai, học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa dạng như: kể chuyện; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trò chơi, ... 
 Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Bản thân luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự tin, tự lập, tự khẳng định qua việc học nhóm. 
Ví dụ: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị” môn Luyện từ và câu tôi cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi còn tổ chức cho các em trao đổi: “Theo em, như thế nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình. 
Ví dụ: Trong môn Khoa học. Ở bài: "Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn?” bản thân cho học sinh thảo luận nhóm, chơi trò chơi “đi chợ” và lên thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày: Sáng, trưa, tối dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đủ chất, đảm bảo sức khỏe. 
Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho các em, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
	 Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức hơn, thái độ đúng mực với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi giao tiếp... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. 
Ở môn Khoa học: Chương “Con người và sức khỏe” giúp các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những việc nên làm và không nên làm để phòng tránh tai nạn đuối nước, có ý thức làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt. 
Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng tránh tai nạn giao thông và các thương tích khác, cần thông qua các tiết: An toàn giao thông, Khoa học, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí. 
Chẳng hạn: “Trẻ em dưới 7 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào?”; “Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?”; “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra?”;... 
 Ở bài: “Các nguồn nhiệt” môn Khoa học: các em được đóng vai xử lí tình huống khi có tai nạn ở nhà như: Ủi quần áo bị cháy hay trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa... Các nhóm sẽ thảo luận sau đó lên thể hiện. Các em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra. 	 
 * Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết hoạt động tập thể, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, vui chơi.
	 Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè,và tổng kết vào các tiết hoạt động tập thể. Bản thân học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi.
 Ngoài ra, những buổi chào cờ, khuyến khích các em xung phong trả lời câu hỏi mà thầy (cô) Tổng phụ trách đưa ra. Luôn lắng nghe các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và thực hiện tốt các phong trào. 
	 Không những thế, tôi còn khuyến khích các em chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với cô và bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những tiết hoạt động tập thể, giờ ra chơi cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát triển trí tuệ (Cờ vua, Ô ăn quan),
 Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh của trường, lớp hàng ngày.
 Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn chú ý đến công tác động viên, khen thưởng học sinh qua biện pháp sau.
 * Động viên, khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban đại diện cha mẹ HS cùng phối hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời, động viên các em để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. 
Mỗi học kì, để khen thưởng những em đã đạt nhiều thành tích, tiến bộ trong rèn luyện và học tập bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được khen, nhận được những món quà của cô giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất hữu ích và hiệu quả. Các em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
 *Tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ bản.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.
Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi. 
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói về cảm giác và về những lựa chọn của mình. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Thầy cô, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện điều đó.
Thầy cô, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng là một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, tho

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_Giao_duc_ki_nang_song.doc