Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng

*. Biện pháp1: Dạy trẻ học tiếng Việt theo trình tự nghe – hiểu – thực hành.

 + Trẻ học hiểu nghĩa của từ và câu trước khi nói chính xác từ và câu đó.

Bước vào ngưỡng cửa trường mẫu giáo trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ thứ hai và đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong quá trình trẻ học nói tiếng Việt, tiếp thu kiến thức bằng tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cô đều thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ 1, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển khả năng nghe hiểu lời nói của cô.

Với mục đích trẻ trẻ hiểu ghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành tiếng Việt. Yêu cầu đối với giáo viên không cấm trẻ nói tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà không hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành động với đồ vật, bằng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề.

 

doc 20 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 7768Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 4 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ờng có máy trình chiếu có thể kết nối với máy tính xách tay, lớp được trang bị các tài liệu, sách truyện để làm tài liệu dạy.
Bản thân đã bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. 
Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện của lớp và nhà trường, tỉ lệ chuyên cần của trẻ cao.
Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của học sinh 
Trường lớp khang trang, sạch sẽ có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ hoạt động trong lớp và ngoài trời. 
 * Khó khăn:
- 100% học sinh trong lớplà dân tộc Mông nên việc giao tiếp giữa cô và trẻ còn bất đồng về ngôn ngữ.
- Có 60% trẻ mới bắt đầu ra lớp và cũng là lúc trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt.
- Nhiều phụ huynh chưa thành thạo tiếng phổ thông và chưa chú trọng vào việc dạy tiếng phổ thông cho trẻ tại gia đình.
- Đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ chưa phong phú đa dạng, chưa có sự đầu tư và chưa có sự sáng tạo.
- Đối với trẻ mới ra lớp ngôn ngữ nói tiếng việt của trẻ còn hạn chế trẻ chậm chạm, nhút nhát, chưa tự tin.
- Cô giáo còn hạn chế về tiếng Mông nên việc phối kết hợp giữa cô và trẻ còn chưa đạt hiệu quả cao.
Kết quả khảo sát thực trạng trẻ đầu năm học 2013 – 2014:
* Bảng1: Khảo sát ngôn ngữ tiếng việt của trẻ đầu năm học
 Nội dung
Kết quả khảo sát
Trẻ nói thành thạo tiếng Việt
0/23 = 0%
Trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động học và trò chuyện cùng cô.
3/23 = 13%
Trẻ nghe và hiểu một số yêu cầu của cô: Đứng lên, ngồi xuống, đi ra ngoài, vào lớp, đi vệ sinh,..
6/23 = 26%
Trẻ biết một số từ đơn giản trong giao tiếp diễn đạt những yêu cầu, mong muốn của bản thân như chào hỏi, mời cô và các bạn ăn cơm, xin đi vệ sinh, xin cô uống nước, chơi cùng các bạn....
4/23 = 17,4 %
Trẻ đọc thơ và kể chuyện một cách mạch lạc.
0/23 = 0%
Trẻ tự tin thể hiện, chao đổi trò chuyện cùng cô hay người lạ
0/23 = 0%
Bảng 2. Chất lượng Giáo dục đầu năm học
Lĩnh vực phát triển
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Thể chất
23
0
0
5
21,7
10
43,5
8
34,8
Ngôn ngữ
23
0
0
3
13
5
21,7
15
65,2
Nhận thức
23
0
0
4
17,4
11
47,8
8
34,8
Thẩm mỹ
23
0
0
5
21,7
10
43,5
8
34.8
Tình cảm xã hội
23
1
4,3
6
26,1
7
30,4
9
39,1
2.3. Nguyên nhân
	Với đặc thù trường có 100% trẻ học là dân tộc thiểu số, 60% trẻ mới bắt đầu ra lớp trẻ bắt đầu học và làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt. 
Vì Tiếng Việt không phải tiếng mẹ đẻ nên việc học tập và trao đổi trò chuyện với cô và bạn bè còn nhiều hạn chế.
- Các tài liệu giáo dục chưa thật sự phù hợp với đối tượng, chưa có tài liệu dành riêng giáo viên dạy vùng Dân tộc. Trong khi đó giáo viên lại chưa được trang bị kiến thức về đối tượng học sinh.
	Đa số phụ huynh chưa thành thạo tiếng Việt, việc chao đổi trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông tại gia đình trẻ chưa có chú trọng.
	40% trẻ trong lớp học qua lớp nhà trẻ song tỉ lệ chuyên cần chưa cao, giáo viên chưa chú trọng vào việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Chương 3:
" Một số biện pháp phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ 3 – 5 tuổi ở lớp mẫu giáo bé trường mầm non Nậm Loỏng". 
Để khắc phục những khó khăn trên giáo tôi đã thực hiện như sau:
- Nắm vững những đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ 3 – 5 tuổi.
- Có các giải pháp hướng dẫn trẻ học tiếng Việt một cách linh hoạt, phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế của nhà trường, phù hợp với địa phương và khả năng nhận thức của trẻ trong lớp.
- Thường xuyên tham khảo tài liệu, sưu tầm các thông tin trên mạng intenet, dự giờ kiến tập đồng nghiệp, học hỏi kinh nghiệm.
- Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh cùng với giáo viên tích cực dạy tiếng phổ thông cho trẻ.
 	 Để giúp trẻ tăng khả năng nghe hiểu và thực hành tiếng Việt một cách tốt nhất tôi kiên trì, sáng tạo và gần gũi với trẻ. Bằng sự hiểu biết của mình tôi lựa chọn những nội dung những bài học và những hình thức, những hình ảnh đẹp hay những tình huống hẫp dẫn giúp trẻ học tiếng việt có hiệu quả vì vậy tôi đưa ra các biện pháp sau:
3.1 Biện pháp thực hiện
*. Biện pháp1: Dạy trẻ học tiếng Việt theo trình tự nghe – hiểu – thực hành.
 + Trẻ học hiểu nghĩa của từ và câu trước khi nói chính xác từ và câu đó.
Bước vào ngưỡng cửa trường mẫu giáo trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ thứ hai và đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong quá trình trẻ học nói tiếng Việt, tiếp thu kiến thức bằng tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cô đều thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ 1, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển khả năng nghe hiểu lời nói của cô. 
Với mục đích trẻ trẻ hiểu ghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành tiếng Việt. Yêu cầu đối với giáo viên không cấm trẻ nói tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà không hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành động với đồ vật, bằng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề.
Ví dụ: Trẻ làm quen với tên gọi các bạn: đây là bạn Mai chi, đây là bạn Mai Trang cô dắt trẻ lên và giới thiệu cho các bạn nghe, lần lượt các bạn trong lớp. Cho trẻ làm quen với tên gọi và đồ dùng đồ chơi ở các góc trong lớp học: Đây là viên gạch, đây là quả táoKhi cô giới thiệu cho trẻ nghe cô hỏi lại để kiểm tra đối với các trẻ. Cô giới thiệu và làm mẫu một số hành động cụ thể : đứng lên, ngồi xuống, đi ra ngoài kết hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích nghĩa của từ và câu, nhất là những từ trừu tượng, khó hiểu. Tôi thường xuyên dùng những từ ngữ nhẹ nhàng để khen ngợi trẻ, nêu những điểm nổi bật làm trẻ thích thú và chăm chú nghe cô nói.
Sử dụng đồ dùng cho trẻ tiếp cận theo nhóm đối tượng giúp trẻ dễ sâu chuỗi được vấn đề hơn: 	
Vi dụ: Cho trẻ quan sát tranh các con vật cô hỏi “ Con gì đây” và “đây là con gì” đầu tiên trẻ chưa biết tôi hướng dẫn trả lời rồi cho trẻ bắt chước sau đó trẻ tự trả lời, và cứ như vậy trẻ sẽ tự hiểu đó là những con vật. Vì vậy khi cho trẻ tiếp súc đối tượng tôi thường đưa các đối tượng có cùng chủng loại: các loại quả, các đồ chơi...
Tôi thường xuyên trao đổi với trẻ bằng cách chọn từ ngữ sao cho ngắn gọn, dễ hiểu kết hợp hướng dẫn giúp trẻ hiểu những vấn đề, nhiệm vụ gần gũi đối với trẻ: Ví dụ: Khi trẻ đến lớp cô nhắc “ Chào cô nào” và cô hướng dẫn cho trẻ thực hiện nói “ Cháu chào cô” và các khái niệm, các từ chỉ tên người, đồ vật ví dụ: Tên bạn, quần áo, bát đĩa, tên đồ dùng đồ chơi trong lớp, một số hoạt động hàng ngày trẻ phải thực hiện ví dụ: con hát nào, con hãy đọc thơ, con thực hiện cùng cô nào
Tôi luôn chú ý phát rõ âm để trẻ dễ tiếp thu, dạy trẻ cần phải kèm tranh minh họa, vật thật đôi khi cần có cả sự giải thích, khi sử dụng từ ngữ cô lựa chọn cầu từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trẻ. Chú ý cung cấp từ mới cho trẻ phải nhắc đi nhắc lại giúp trẻ nghe rõ và hiểu vấn đề một cách cụ thể.
Tạo cho trẻ năng lực bắt chước kết hợp âm thanh, trẻ thường xuyên học nhắc lại những gì nghe được từ cô và các bạn, đây cũng là một trong những biện pháp trẻ dễ học dễ hiểu nhất: Ví dụ: Trong giờ học tôi đưa một bức tranh và hỏi trẻ cô có gì đây? Một số trẻ trả lời “ Tranh con vịt” cô khẳng định là đúng và cho cả lớp và cá nhân bắt chước nói giống cô và các bạn cứ như vậy trẻ học rất nhanh và hiệu quả cũng rất cao.
Nghe với những hình ảnh động: Các hình ảnh đính kèm những ngôn ngữ làm cho trẻ ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung của vấn đề, mà không cần phải ‘dịch’ từng câu. 
Ví dụ: Thường xuyên mở các bài hát, đoạn video về các con vật, các hiện tượng tự nhiên hay các sự kiện cho trẻ xem, trẻ chăm chú phán đoán và trẻ cũng dần hiểu một số câu từ trong những đoạn video, clip đó.
Luyện nghe cho trẻ cũng rất quan trọng, luyện cho trẻ nghe được các âm vị cấu trúc âm tiết khác nhau , nghe biểu cảm về phương diện âm thanh. 
Mặc dù có thể hơi khó với trẻ nhưng đọc hay kể chuyện cho trẻ nghe ngay từ những ngày đầu tới lớp của trẻ là một trong những cách tốt nhất giúp trẻ làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt. Thông qua việc dành thời gian đọc, kể cho trẻ nghe từ đó giúp trẻ nhận biết những điều kỳ diệu mà ngôn ngữ đem lại và sự thích thú của trẻ đối với những điều kỳ diệu đó sẽ biến trẻ thành người ham học.
Yêu cầu ở nội dung này cô cần phải kiên trì, thường xuyên trò chuyện giao tiếp cùng trẻ có nhiều biện pháp giúp trẻ nghe hiểu một cách chính xác nội dung cô cần truyền đạt. Do vậy tôi luôn chú ý đến lời nói phải chính xác, rõ ràng, mạch lạc, tránh nói lắp, nói ngọng.
Lựa chọn nội dung giáo dục và hoạt động phù hợp với khả năng của trẻ.
Ví dụ: Lựa chọn những bài thơ, bài hát ngắn gọn dễ hiểu, tìm những bài thơ, ca dao, đồng dao giúp trẻ dễ đọc dễ nhớ và cũng thuận lợi trong việc khai thác nội dung.
Luôn chú ý hệ thống câu hỏi đàm thoại với trẻ để đảm bảo tình phù hợp, chính xác và có tính mở chú trọng lấy trẻ làm trung tâm. Đặc biệt khi lựa chọn đề tài này cần phải chú trọng hơn khi xây dựng nội dung giáo dục để đảm bảo tính hiệu quả phù hợp với nội dung và đối tượng vùng miền. 
+ Trẻ học tiếng Việt gắn với những tình huống thực tế.
Hình ảnh, trò chơi, nhạc họa, diễn kịch nói chung là các hoạt động nhằm giúp trẻ tham gia vào môi trường sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên, không gượng ép. Các hoạt động đa dạng sẽ giúp trẻ từng bước hình thành phong cách riêng trong học tập và sử dụng tiếng Việt. Phong cách riêng chính là nền tảng của chất lượng và hiệu quả học tập tiếng Việt cho trẻ em. Nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để tạo các tình huống và đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm. 
Ví dụ: Tổ chức các trò chơi cho trẻ như:
-Trò chơi những chiếc thuyền: Cô đổ nước vào chậu hoặc bát to. Để 3 cái hộp rỗng vào. Cần thổi chúng chuyển động từ bờ bên này sang bờ khác. Cô nói với Trẻ: “Con tưởng tượng xem, đây là biển nhé. Để cho tàu ra khơi, cần có gió đẩy thuyền đi. Con hít sâu vào rồi thổi mạnh đi!”. Điều quan trọng là theo dõi việc thở ra và khuyến khích trẻ thực hiện theo yêu cầu của cô.Để kích thích khẩu ngữ của bé, cô đặt những câu hỏi: “Thời tiết trên biển thế nào con nhỉ?”, “Con thấy mặt nước trông như thế nào?”cô cho trẻ chơi theo nhóm nhỏ các trẻ khác quan sát và nhận xét về các con thuyền, nhận xét cách chơi của các bạn cùng với những lời tán thưởng của cô trẻ rất thích thú cổ vũ cho những con thuyền, đây cũng là một hình thức trẻ được chơi một cách thoải mái nhất nhưng trẻ lại nhớ lâu những từ mới như “con thuyền”, “mặt nước”, “thổi mạnh”, “thuyền đi nhanh, thuyền đi chậm” bởi qua lúc chơi trẻ hò reo cổ vũ theo cô và các bạn.
 - Trò chơi dàn nhạc đặc biệt: Cần 6 cái hộp và 3 kiểu vật liệu hạt rời (ngũ cốc, đường, bột, hạt cườm). Điều quan trọng là đổ từng đôi hộp số lượng vật liệu như nhau để âm thanh trùng nhau chính xác. Nhưng âm thanh của đôi hộp này cần khác biệt với đôi khác. Một bộ đưa cho trẻ, còn bộ kia cô giữ. Cô lắc “Hộp” bất kì, còn trẻ cần tìm trong bộ của mình cái thùng có âm thanh y như thế. Cô tăng dần số lượng hộp. Cô nghĩ ra những tên gọi lí thú cho những dụng cụ đó: Tiếng ồn, quả bom, lúc lắc, lạo sạo trẻ được chơi cả lớp và yêu cô yêu cầu cá nhân lên chọn “Hộp” cả lớp cùng nhắc giúp bạn với sự gợi ý của cô. Cô nói các con chú ý xem chiếc “Hộp” này có tiếng kêu thế nào ? ai giỏi lên tìm hộp có tiếng kêu giống hộp của cô nào. Trẻ sẽ phải lắc các hộp để tìm cùng với sự chỉ dẫn của các bạn “ Hộp này, hộp kia, đúng rồi, sai rồi, tìm đi, lắc hộp đi” đó là những từ được nhắc nhiều trong trò chơi, trẻ cổ vũ, chỉ dẫn cho bạn, đây cũng là cách trẻ được học những từ mới mà không cần cô chỉ dẫn song vẫn đạt yêu cầu trẻ em rất thích điều đó.
- Trò chơi cái bao bí ẩn: Cần một cái bao hoặc túi không trong suốt để không nhìn thấy được những vật dụng bên trong túi. Cho vào đó những đồ vật hình oval và hình tròn (trứng, quả bóng nhỏ, bóng lục lạc, cái hộp). Trước khi cô cho những vật trên vào bao, hãy cho trẻ sờ chúng trước và gọi tên những vật đó. Sau đó, đề nghị trẻ tìm vật cần thiết qua cảm ứng: “Bàn tay con có đôi mắt thần kì đó. Con hãy dùng tay lấy cho cô quả bóng xem nào!” (hoặc vật khác). Cô hỏi trẻ về đồ vật trẻ lấy ra khỏi bao: “Đây là cái gì?”, “Có thể chơi bóng như thế nào nhỉ?”.
- Các tình huống gắn liền với hoạt động trong ngày cũng là những cơ hội để giáo viên giúp trẻ tăng cường tiếng Việt. Tôi giúp trẻ làm giàu thêm vốn từ vựng của mình và giúp trẻ phát triển khả năng nghe, phản xạ bằng cách yêu cầu trẻ nêu tên tất cả những đồ vật mà trẻ biết bắt đầu bằng những tên bạn trong lớp, tên cô, tên các đồ dùng đồ chơi.
Ví dụ: Cô hướng trẻ với những sự vật hiện tượng sung quanh để trò chuyện và mở rộng ngôn ngữ cho trẻ, gợi ý tạo sự tò mò của trẻ vào những thay đổi khác thường chẳng hạn: Cây đào sân trường ra hoa, trời mưa rất to, bạn Lan có váy mới
*.Biện pháp2: Ttrực quan hành động.
Phương pháp này rất hiệu quả đối với người bắt đầu học một ngôn ngữ mới (ngoài tiếng mẹ đẻ), cho phép người học tiếp thu ngôn ngữ mới một cách dễ dàng và tự nhiên mà không bắt buộc phải quá tập trung hay căng thẳng. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở nhiều hình thức khác nhau. Với phương pháp này, người học được sử dụng tích cực các giác quan và vận động của cơ thể trong suốt quá trình tham gia vào hoạt động học tập và thực hành ngôn ngữ mới. Các kỹ năng nghe - quan sát - phản hồi (bằng hành động của cơ thể) được sử dụng hiệu quả trong quá trình học tập. Phương pháp này giúp giáo viên và trẻ có thể áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các hoạt động dạy và học để đạt được những giờ học thực sự tích cực. Sử dụng đồ dùng trực quan đẹp, bắt mắt đó cũng là cách làm trẻ tò mò xem đó là gì, thích được tham gia vào hoạt động với đồ dùng đó.
Ví dụ: Các giờ hoạt động khám phá môi trường, ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ cô cũng đồng thời tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách rất hiệu quả. Thông qua những hình ảnh, mô hình, vật thật trẻ được sờ, được nếm, được ngửi, được nghe cùng với những từ ngữ có chọn lọc cô cung cấp kiến thức và từ mới cho trẻ : Với hoạt động làm quen các loại quả trẻ biết tên quả, quả có màu gì, ăn có vị gì, con thích quả gì. Cô nhắc lại những đặc điểm rồi cho trẻ nhắc lại cứ như vậy trẻ học từ mới một cách tự nhiên theo nhiều hướng khác nhau. Với chương trình giáo dục mầm non thực hiện chủ đề nhánh theo tuần vậy nên trong tuần trẻ được tiếp súc làm quen nhiều loại quả với nhiều hình thức khác nhau như: xem tranh, xem hình ảnh trên video, quả thật và qua sự miêu tả của cô. ở các hoạt động vui chơi và hoạt động khác nữa. Trẻ dần khắc sâu ngôn ngữ tiếng Việt cùng với tư duy của mình.
Giáo viên sử dụng các đồ vật/đồ chơi gần gũi, quen thuộc với trẻ để dạy tiếng Việt cho trẻ. Với trẻ lớp bé, trẻ mới ra lớp nên lựa chọn các vật thật hoặc các đồ dùng, đồ chơi sẵn có trong lớp và trẻ thường được chơi và sử dụng để cho trẻ học. Tôi không chụp ảnh các đồ vật sẵn có trong lớp, những đồ vật tôi có thể chuẩn bị được để đưa vào máy tính và trình chiếu cho trẻ quan sát mà sử dụng các đồ vật/đồ chơi thật giúp trẻ vừa được học từ, học câu và vừa được thao tác với đồ vật/đồ chơi có kết hợp sử dụng ngôn ngữ, ngôn ngữ thứ hai sẽ trở nên gần gũi hơn với đời sống hàng ngày của trẻ.
Đối với trẻ nhà trẻ và mẫu giáo 3 – 4 tuổi tôi tiến hành trò chuyện kết hợp với trực quan, hướng chú ý của trẻ lên đối tượng, sau đó gợi cho trẻ nhớ lại bằng những câu hỏi đơn giản... 
Ví dụ: Khi trò chuyện về con mèo, cô giáo có thể cho trẻ xem tranh hoặc quan sát con mèo thật, cô giáo yêu cầu trẻ quan sát thật kỹ về con mèo để biết con mèo có đặc điểm gì, hoạt động như thế nào, sau đó cô đặt câu hỏi cho trẻ trả lời. Cần lưu ý đến khả năng ngôn ngữ của trẻ trong quá trình trò chuyện nhằm phát triển, tăng cường ngôn ngữ dưới hình thức.
* Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Những hình ảnh đẹp những hiệu ứng của hình ảnh có tình huống biến hóa, những vi deo sôi động là cách lôi cuốn trẻ , trẻ có thể ngồi hàng giờ bên video, tôi thường suy tầm những nội dung phù hợp với chủ đề cho trẻ khám phá:
Ví dụ: Những bài học luyện phát âm và hay từ mới cho trẻ, với chủ đề giáo thông có những loại phương tiện giao thông hình ảnh kèm lời đọc loại phương tiện đó , trẻ được chi giác và phát âm theo, hay chủ đề động vật cũng có rất nhiều bài dạy trẻ phát âm tên và vận động động của các con vật.
*. Biện pháp 3: Hình thành sự tự tin cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Tôi lựa chọn phương pháp này mong rằng trẻ sẽ mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong việc sử dụng tiếng việt trong giao tiếp cũng như trẻ dám thể hiện bày tỏ quan điểm của mình về những gì xung quanh, qua đó giữa cô và trẻ có sự trao đổi thường xuên các thông tin và đây cũng là cách giúp trẻ thực hành tiếng Việt một cách có hiệu quả nhất.
 Chắc chắn là trẻ cũng rất thích khi được cô giáo và bạn bè động viên. Nhưng những lời động viên, khen ngợi đó sẽ có tác dụng lớn hơn khi chúng được nói ra dựa trên những việc trẻ đã làm tốt hoặc đã nỗ lực để thực hiện. Một khi trẻ đã đạt được một mục tiêu nào đó thì cô giáo khen ngợi chúng cả về thành quả lẫn quá trình nỗ lực để đạt được thành quả đó.  
Ví dụ: Sau khi trẻ nặn được một quả cam cô nói với trẻ rằng “ Con nặn đẹp rồi con hãy vuốt cho quả mịn hơn nữa đi” hoặc khi trẻ đọc thơ cô khen trẻ và khuyết khích các bạn động viên trẻ. Cô chú ý động viên khen ngợi trẻ kịp thời và hướng cho trẻ đến với sự chính xác của vần đề.
Ví dụ: Khi cô hỏi trẻ màu sắc của bông hoa hồng màu đỏ “ Bông hoa có màu gì?” nếu trẻ trả lời màu xanh tôi thường cho trẻ khác nhận xét và cô khẳng định lại và khuyến khích trẻ trả lời lại cho thật chính xác và cũng không quên động viên trẻ tạo tâm lý thoải mãi ngay cả khi trẻ biết mình trả lời sai.
Tuy nhiên, cần phải chọn thời gian thích hợp để trẻ học làm những việc này. Thời gian vui chơi, hoạt động khám phá là thích hợp nhất vì trẻ có thể làm từ từ và ít căng thẳng hơn.
Ví dụ: Các hoạt động: Ngoài trời, hoạt động góc, các hoạt động khám phá hay các tiết biểu diễn văn nghệ 
Sự tự tin ở trẻ sẽ tăng lên mỗi khi chúng học được một kĩ năng mới hay vượt qua một mốc quan trọng nào đó. Vì vậy cô giáo thường xuyên có thể giúp trẻ gây dựng sự tự tin bằng cách tạo cho chúng thật nhiều cơ hội để rèn luyện và tập thành thục các kĩ năng mới. Tôi để cho trẻ tự do thể hiện và luôn ở bên để động viên tinh thần của chúng, nhắc chúng tiếp tục cố gắng. Luôn tỏ ra thích thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện là chúng đã tập thành thạo một kĩ năng mới rồi . Khen ngợi trẻ mỗi khi trẻ đạt được một mục tiêu nào đó hoặc nỗ lực làm việc gì đó.
Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi hay ôn luyện tôi thường mời cá nhân trẻ lên giới thiệu về bản thân và chủ đề trẻ đang học, mời trẻ lên đọc thơ hay ca hát, mở các bản nhạc vui nhộn cho trẻ cùng vui nhảy múa theo như các Video erobic mầm non
Trẻ thường xuyên thực hành sẽ trở nên tiến bộ rất nhiều vì vậy tôi thường xuyên chao đổi với trẻ nhằm giúp trẻ được trò chuyện với cô ở mọi lúc mọi nơi.
Vi dụ: Giờ đón trẻ cô trò chuyện với trẻ “ Ai đưa con đi học”, “ Sáng nay con ăn gì”, “ Ai buộc tóc cho con đẹp thế”Giờ trả trẻ “ Khi về nhà gặp bố mẹ con sẽ làm gì?”, “ Con chào bà như thế nào, con chào ông như thế nào?....” 
	Cô luôn phải là tấm gương cho trẻ soi vào, ở đây mỗi động tác, lời nói cử chỉ điệu bộ của cô cũng là những bài học cho trẻ, muốn trẻ tự tin cô giáo luôn phải có sự sáng tạo tìm tòi đưa ra các cơ hội giáo dục cho trẻ khác nhau. 
	Ví dụ: Tổ chức các trò chơi tập thể hoặc cá nhân, giúp trẻ tích cực tham gia theo hình thức tập thể.
- Giáo viên nên khám phá những mặt mạnh, những điểm tích cực của trẻ để khuyến khích, nâng đỡ. Tăng cường tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi, phù hợp với khả năng của trẻ. Giáo viên luôn cần giúp trẻ hình thành mối quan hệ gắn bó giữa trẻ này với trẻ khác, giữa trẻ với cô giáo như vậy trong quá trình học, sinh hoạt động ở trường cùng cô và các bạn trẻ biết chia sẻ bày tỏ và phối kết hợp cùng hoạt động vui chơi, cô tạo các hoạt động cho cô và trẻ cùng hoạt động: cùng chơi đùa, cùng ăn uống, cùng trò chuyện với sự thân thiện và tôn trọng trong một môi trường an toàn và vui vẻ. 
	Ví dụ: Cô luôn coi những đứa trẻ là bạn trong lúc

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tang_cuong_tieng_viet_cho_tre_dan_toc_thieu_so.doc