Sáng kiến kinh nghiệm Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh

 Tôi thiết kế bài dạy có sử dụng các phần mềm ứng dụng bổ trợ, sưu tầm, lựa chọn thông tin tại các website baigiangdientubachkim.com, baigiang.violet.vn, và các tài liệu liên quan như: chuẩn kiến thức kỹ năng, SGK, SGV.Trong quá trình giảng dạy tôi có thể thực hiện 1 trong các phương pháp giáo dục tác động, ở đây tôi sử dụng phương pháp đưa trò chơi vào trong qua trình giảng dạy làm phương pháp chính, ngoài ra tôi còn kết hợp 1 số phương pháp khác (phụ lục)

Thời gian giảng dạy tôi thực hiện theo lịch của nhà trường, cũng có thể sử dụng các buổi ngoại khóa thực tế để triển khai.

 Tôi tiến hành kiểm tra trước tác động. Sau đó tôi tiến hành tác động tới đối tượng cần nghiên cứu. và ghi lại số liệu. Cuối cùng phân tích số liệu và đưa ra kết luận

 

doc 15 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 6163Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h không ?
-Việc áp dụng các phương pháp Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc sẽ nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh 
4. Thiết kế 
- Ở đây tôi sử dụng thiết kế 1.Kiểm tra trước và sau tác động của nhóm học sinh tương đương.
5. Đo lường 
Tôi sử dụng bài kiểm tra để đánh giá tác động, từ đó phân tích dữ liệu và rút ra kết luận. 
6. Phân tích dữ liệu
Bài kiểm tra trước tác động (phụ lục 2)
Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra (phần phụ lục 3)
7. Kết quả
 Đánh giá kết quả với vấn đề nghiên cứu có nghĩa không?
Nếu có ý nghĩa mức độ ảnh hưởng như thế nào?
1.TÓM TẮT ĐỀ TÀI 
 Trong thời kỳ đổi mới và phát triển ca hát luôn là món ăn tinh thần cho con người cũng như trong chương trình giáo dục ở các cấp học .Đối với các cấp tiểu học, THCS thì đây là kiến thức ban đầu giúp cho học sinh học và biết ca hát theo một quy định chung nhất. Nhưng qua thực tế việc giảng dạy phân môn này ở trường THCS, tôi thấy còn rất nhiều khó khăn như:
 Ngoài sự quan tâm của ngành giáo dục, sự giúp đỡ của các lãnh đạo và giáo viên trong trường thì mong muốn của tôi là đội ngũ giáo viên âm nhạc phải thật đồng bộ từ cấp mầm non, tiểu học và THCS. Vì nếu không có sự đồng bộ thì việc truyền thụ kiến thức sẽ gặp khó khăn cho giáo viên dạy các lớp sau. Ví dụ: giáo viên dạy mẫu giáo có khả năng gây sự say xưa yêu thích học hát, nghe âm nhạc cho các em ngay buổi ban đầu và tiếp đó khi lên cấp tiểu học các em đã vốn có cảm tình yêu thích học hát, nghe âm nhạc đây là cơ sở tốt cho giáo viên âm nhạc truyền thụ những kiến thức mới cho ở cấp tiểu học cho các em. Học xong tiểu học cũng như các môn học khác, các em đã có sẵn vốn kiến thức nói chung. Riêng môn âm nhạc và học hát vốn là sở thích của các em khi ở độ tuổi ban đầu “Học mà chơi, chơi mà học” ở các cấp mẫu giáo và ở các cấp đầu bậc tiểu học, lên cấp THCS, các em đã có kiến thức và sự say mê cộng với sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm và đặc biệt là trình độ năng lực nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên âm nhạc ở mức độ cao hơn sẽ tạo ra sự say mê ham thích, ưu ái môn học này. Đây là động lực to lớn để thúc đẩy các môn học khác và các hoạt động xã hội của nhà trường.
	Ta đã biết rằng bất kỳ làm việc gì nếu có hứng thú thì sẽ dễ đi đến thành công, đặc biệt là đối với học sinh do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em. Nếu thích thú thì các em sẽ làm tốt, khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở của hứng thú nó sẽ trở nên hào hứng, thoải mái và dễ dàng.
 Hứng thú trong học tập nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nuôi dưỡng ở các em lòng ham muốn chính đáng trong việc không ngừng vươn tới những đỉnh cao của việc nắm vững kiến thức, luôn tìm tòi học tập cái mới tích cực sáng tạo cái đã học vào hoạt động thực tiễn.
Môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú cho học sinh. Âm nhạc bản thân nó cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều người. Tạo cho các em hứng thú trong học tập môn âm nhạc không chỉ nâng cao hiệu quả dạy học mà còn làm cho các em vui tươi phấn khởi thoải mái về tinh thần.
Xuất phát từ thực tế hiện nay là đang thực hiện các cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”. Mỗi thầy cô giáo phải tự đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá (từ năm học 2008 – 2009 đến nay đánh giá học sinh bằng hình tức xếp loại) học sinh tự chủ động chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên là người hướng dẫn điều khiển việc tạo hứng thú học tập cho các em có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học. 
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn âm nhạc, bản thân tôi nhận thấy đó là một trong những yếu tố hết sức quan trọng.
 Như chúng ta đã biết âm nhạc có vai trò rất to lớn, âm nhạc đem đến những khoái cảm thẩm mỹ cao, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
 Trong những năm qua, từ khi nước ta bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp giáo dục đào tạo âm nhạc có điều kiện phát triển những bước cao hơn. Cho đến ngày nay việc đưa âm nhạc vào học đường đã được chú trọng vì những lợi ích quan trọng của nó trong việc giáo dục học sinh thành những con người toàn diện.
 Bởi vậy việc dạy âm nhạc ở trường phổ thông nói chung và cấp học THCS nói riêng, mặc dù không nhằm đào tạo các em thành những con người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp mà chủ yếu là giáo dục văn hoá âm nhạc, làm cho các em yêu thích nghệ thuật âm nhạc, hình thành ở học simh một tâm hồn trong sáng, một thị hiếu âm nhạc lành mạnh, cách tư duy sắc sảo, lòng khát khao sáng tạo, giàu tình cảm nhanh nhẹn hoạt bát và sống vui tươi. Âm nhạc phát triển tối đa những tố chất sinh lý, những phẩm chất tâm lý của lứa tuổi học sinh, tạo điều kiện để các em hoàn chỉnh và cân đối về tâm hồn, trí tuệ và thể chất, làm phong phú tình cảm của lứa tuổi học trò.
Mặt khác qua đó phát triển bồi dưỡng những mầm non nghệ thuật cho tương lai đất nước. Đây là một môn học còn rất mới mẻ không giống những môn học khác, môn học mang tính nghệ thuật cao, học sinh học theo phương châm học vui- vui học. Vì vậy, tạo cho các em say mê hứng thú học tập là rất cần thiết.
2.GIỚI THIỆU. 
 2.1 Hiện trạng
Xuất phát từ sự thay đổi về mặt tâm sinh lý lứa tuổi và một số học sinh còn xem môn học âm nhạc là một môn phụ, các em chỉ quan tâm đến môn học mà các em đã định hướng cho nghề nghiệp tương lai sau này nên một số học sinh chưa thực sự hứng thú học.
Trên thực tế hiện nay tại các trường THCS tôi thấy số giáo viên được đào tạo chuyên sâu vào môn Âm nhạc tương đối đầy đủ với các loại hình đào tạo (CĐSP, ĐHSP Âm nhạc) Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy còn một số bộ phận giáo chưa đáp ứng hết yêu cầu của bộ môn. Dạy còn mang tính chất qua loa, chưa thực sự gây hứng thú đối với học sinh. Bởi vì đặc trưng của bộ môn âm nhạc khác so với nhiều môn học khác ( dạy học không nên cứng nhắc, áp đặt, máy móc). Mặt khác, có một số giáo viên chưa thực sự nắm vững đặc trưng của bộ môn nên trong quá trình dạy còn hơi cứng nhắc dẫn đến học sinh thấy tiết học nhạc còn nặng nề không tập trung học. Để cung cấp kiến thức khoa học, giáo dục tư tưởng và rèn luyện kỷ năng cho học sinh , giáo viên phải làm cho học sinh ham mê hứng thú học tập, làm cho quá trình học tập của các em trở nên tự giác tạo nên niềm vui trong học tập và giúp các em tích cực, chủ động hơn trong hoạt động âm nhạc. Bất kỳ môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú học tập đối với học sinh. Bản thân nghệ thuật âm nhạc nói chung và môn âm nhạc ở trường THCS nói riêng là nguồn cảm hứng là sự kích thích, sự say mê học tập của học sinh nhưng không phải dạy như thế nào cũng gây được hứng thú cho học sinh đặc biệt là học sinh hai khối (lớp 8 và lớp 9).
 2.2 Nguyên nhân
 +Các em chưa chú trọng vào môn nhạc do chú trọng các môn học chính như văn toán.
 +Một số học sinh không có năng khiếu nên chán
 +Giáo viên dạy chưa có sức hút
 2.3 Giải pháp thay thế 
 Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong việc kiểm tra miệng...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới, nhưng sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu đề mục mới tạo sự hấp dẫn đối với học sinh. Giải pháp thay thế là: "Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh".
 2.4 Vấn đề nghiên cứu
 Việc áp dụng các phương pháp Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc có nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh không ? 
 2.5 Giả thuyết nghiên cứu
 Việc áp dụng các phương pháp Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc sẽ nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh 
3.PHƯƠNG PHÁP 
 3.1 Khách thể nghiên cứu
 Tôi chọn lựa đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 6 Trường THCS Nguyễn Trãi. Từ đối tượng chính là học sinh lớp 6 có thể giúp tôi đi sâu nghiên cứu thêm về các đối tượng khác, để môn học hát trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống nhân dân. Đặc biệt là giới trẻ để sớm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường
 3.2 Thiết kế nghiên cứu
 ở đây tôi sử dụng thiết kế 1.Kiểm tra trước và sau tác động của nhóm học sinh tương đương.
Bảng 3. Thiết kế nghiên cứu
Nhóm
Kiểm tra trước tác động
Tác động
Kiểm tra sau tác động
N1
O1
Dùng phương pháp đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh.
O3
N2
O2
Không dùng tác động 
O4
 N1 : nhóm thực nghiệm 	N2 : nhóm đối chứng 
|O3 – O4|>0 Ú tác động có ảnh hưởng
N1 và N2 hai lớp học sinh có trình độ tương đương. 
N1 là lớp 6A1 có 41HS, N2 là lớp 6A2 có 41 HS
ở thiết kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập
 3.3 Quy trình nghiên cứu
 Tôi thiết kế bài dạy có sử dụng các phần mềm ứng dụng bổ trợ, sưu tầm, lựa chọn thông tin tại các website baigiangdientubachkim.com, baigiang.violet.vn, và các tài liệu liên quan như: chuẩn kiến thức kỹ năng, SGK, SGV......Trong quá trình giảng dạy tôi có thể thực hiện 1 trong các phương pháp giáo dục tác động, ở đây tôi sử dụng phương pháp đưa trò chơi vào trong qua trình giảng dạy làm phương pháp chính, ngoài ra tôi còn kết hợp 1 số phương pháp khác (phụ lục)
Thời gian giảng dạy tôi thực hiện theo lịch của nhà trường, cũng có thể sử dụng các buổi ngoại khóa thực tế để triển khai.
 Tôi tiến hành kiểm tra trước tác động. Sau đó tôi tiến hành tác động tới đối tượng cần nghiên cứu. và ghi lại số liệu. Cuối cùng phân tích số liệu và đưa ra kết luận
 3.4 Đo lường và thu thập dữ liệu	
 Tôi sử dụng bài kiểm tra để đánh giá tác động, từ đó phân tích dữ liệu và rút ra kết luận 
Bài kiểm tra trước tác động (phụ lục 2)
	Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra (phần phụ lục 3). 
4. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN
 4.1 Phân tích dữ liệu 
. Bảng 5. So sánh điểm trung bình bài kiểm tra
LỚP THỰC NGHIỆM
LỚP ĐỐI CHỨNG 
Mốt (MODE)
5
7
5
6
Trung vị (MEDIAN)
5
7
5
6
Giá trị TB(AVERAGE)
5.5
7.3
5.34
6,1
Độ lệch chuẩn(SD)
1.41
1.35
1.49
1.42
giá trị P
0.28
0.000109
mức độ ảnh hưởng (SMD)
0.13
0.86
Giữa kết quả KT trước tác động và sau tác động của nhóm thực nghiệm
0.92
0.90
Hình 1. Biểu đồ so sánh ĐTB trước tác động và sau tác động
của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng 
4.2 Bàn luận 
Như trên đã chứng minh rằng kết quả 2 nhóm trước tác động là tương đương. Sau tác động kiểm chứng chênh lệch ĐTB bằng T-Test cho kết quả P = 0,00028, cho thấy: sự chênh lệch giữa ĐTB nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả ĐTB nhóm thực nghiệm cao hơn ĐTB nhóm đối chứng là không ngẫu nhiên mà do kết quả của tác động. 
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = . ( nằm trong khung 0,8- 1) Điều đó cho thấy mức độ ảnh hưởng của tác động đến TBC học tập của nhóm thực nghiệm là lớn.
Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm là TBC= 7,35 , kết quả bài kiểm tra tương ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6,1 . Độ chênh lệch điểm số giữa hai nhóm là 1,25 ; Điều đó cho thấy điểm TBC của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 0,86. Điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn. 
Phép kiểm chứng T-test ĐTB sau tác động của hai lớp là p=0.00028< 0.001. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch ĐTB của hai nhóm không phải là do ngẫu nhiên mà là do tác động. 
=> Giả thuyết của đề tài “Đưa trò chơi vào trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc nhằm nâng cao hiệu quả bài học và tạo hứng thú cho học sinh” đã được kiểm chứng. 
 * Ưu điểm:
 	 - Phương pháp này giúp học sinh tham gia môn học một cách tích cực chủ động và hứng thú.
	 - Thu hút sự tập trung của học sinh trong tiết dạy .
 * Hạn chế: 
Việc gây hứng thú cho học sinh trong giờ học không chỉ một lần mà phải rèn luyện thường xuyên từ phút đầu đến phút cuối giờ học. Hơn nữa phải làm cho mức độ hứng thú ngày càng tăng đến nỗi các em không để ý thời gian trôi đi nhanh chóng và đến khi giờ học kết thúc học sinh còn luyến tiếc.
5.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
 5.1 Kết Luận 
Ngạn ngữ Nhật Bản có câu: “Tri thức mở ra cho chúng ta những chân trời mới”. Và bộ môn Âm nhạc cũng là một trong những yếu tố để đưa chúng ta đến những chân trời mới lạ. “ Nhờ có âm nhạc, bạn sẽ tìm được bản thân mình những sức mạnh mới mà trước đây chưa từng thấy. Các bạn sẽ thấy cuộc đời trong những sắc thái và màu sắc khác. Âm nhạc cũng đưa bạn xích lại gần lí tưởng về con người hoàn thiện, mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản chúng ta” - Đ.SôtxatacôVich.
	Vai trò của âm nhạc đối với đời sống con người đã được khẳng định là vô cùng quan trọng. Chúng ta những giáo viên âm nhạc, hơn ai hết chúng nhận thức rất rõ điều này. Nhưng không thể chỉ có trình độ chuyên môn thôi chưa đủ, mà tình yêu âm nhạc, niềm đam mê với nghề mới giúp chúng ta đem những chân trời mới lạ trong từng câu hát đến với những học sinh thân yêu. Đó chính là tài sản quý giá mà mỗi người giáo viên phải trau dồi và gìn giữ.
	Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thể hiện quan điểm đó qua các kì Đại hôi VII, VIII, IX. “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội” mà nhìn ở góc độ nào đó thì âm nhạc cũng là văn hoá.
	Xuất phát từ thực tiễn đó, sáng kiến kinh nghiệm của tôi không chỉ phát hiện những khó khăn trở ngại của giáo viên và học sinh khối lớp 6 trường THCS trong việc giảng dạy và học tập phân môn Học hát mà còn đề xuất một số giải pháp khắc phục những khó khăn nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn Học hát, góp phần nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh, thay đổi nhận thức của học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh về bộ môn Âm nhạc nói chung và phân môn Học hát nói riêng.
 Để nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn học hát cũng như môn 
âm nhạc cho học sinh nhằm trang bị cho các em một “Vốn văn hoá âm nhạc” phổ thông tối thiểu nhất là cả một quá trình phức tạp và lâu dài.
 5.2 Khuyến nghị: 
 5.2a đối với giáo viên 
 Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân môn theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học.
- Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm. 
- Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết học, tạo cho các em sự hứng thú vui tươi bởi vì đặc trưng bộ môn đó là học vui- vui học, tránh gò ép đối với học sinh.
- Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp trong trường bằng hình thức tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa.
 Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên phải không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở các đồng nghiệp.
 5.2b Đối với nhà trường 
Thường xuyên tổ chức cho các em giao lưu văn nghệ, thi hátđể các em làm quen với biểu diễn, từ đó các em sẽ mạnh dạn hơn.
Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao kiến thức cho giáo viên âm nhạc.
Vì đây là một môn học mang tính đặc trưng riêng nên cần trang bị thêm một số phương tiện phục vụ cho môn học, để người giáo viên dễ đạt được yêu cầu của nội dung
 bài học.
	Thành phố Tây Ninh, ngày 23 tháng 02 năm 2017
	 Người viết
 Đinh Đức Bình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/. SGV, SGK âm nhạc
2/. Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng
3/. Trang web violet.vn, .
4/. Phần mềm làm nhạc midi .
PHỤ LỤC 1: Các phương pháp tạo hứng thú cho học sinh.
1/. Trong quá trình giảng dạy cần đưa vào một số trò chơi vừa nâng cao hiệu quả bài học, vừa tạo hứng thú cho học sinh.
 Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên giành ít thời gian tổ chức trò chơi cho học sinh thì học sinh rất hào hứng học. Trong âm nhạc có rất nhiều trò chơi nhưng giáo viên phải biết tổ chức trò chơi phù hợp với từng bài học cụ thể.
 Ví dụ: Trong học hát có trò chơi “Nhìn tranh đoán tên bài hát”, “Nghe nhạc đoán bài hát”, “nghe tiết tấu đoán câu hát”.
 Trong tiết tập đọc nhạc có thể cho học sinh chơi trò chơi “Nghe nhạc đoán tên nốt”, hoặc “ghi tiết tấu của bài”, hoặc nghe nhạc doán câu nhạc trong bài Tập đọc nhạc và đọc lại...
Trường hợp đọc , kể chuyện theo sách có thể giáo viên đọc cho học sinh cả lớp nghe. Nếu cần tóm tắt ý chính và nêu câu hỏi cho học sinh trả lời . Bài nào có tranh minh hoạ cần sưu tầm , phóng to những hình vẽ trong sách treo trên bảng. 
 	Mỗi câu chuyện kể phải nhấn mạnh một đôi ý để gây ấn tượng cho các em.
Bên cạnh đó lời nói giọng hát, phong cách năng lực của giáo viên là hết sức quan trọng, đây là một trong những yếu tố gây hứng thú đối với học sinh.
2/ Phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới:
Rõ ràng ngay từ bước chân của giáo viên vào lớp với thái độ vui vẻ thân mật đối với học sinh, việc đánh giá công bằng trong việc kiểm tra miệng...đều là những yếu tố góp phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học mới, nhưng sự hứng thú học tập chỉ thực sự bắt đầu với phần giới thiệu đề mục mới tạo sự hấp dẫn đối với học sinh.
3/. Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh nhằm gây hứng thú học tập cho các em.
Thực chất của việc học tập là chuỗi của quá trình: vấn đề được đặt ra, được nhận thức rồi được đặt ra và được nhận thức ở mức độ cao hơn, đặc trưng của môn âm nhạc là thực hành. Thực hành là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy và học bộ môn. Thông qua 
thực hành để dạy lý thuyết, lấy lý thuyết để củng cố kỹ năng thực hành trên cơ sở sử dụng thời gian trên lớp một cách tối ưu (tránh thời gian chết) để tất cả học sinh được nhìn nghe và luyện tập nhiều. Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên đặt ra nhiều câu hỏi vừa sức đối với học sinh, học sinh dễ hiểu dễ nhớ, hay cho các em nghe, nhìn thể hiện nhiều thì
học sinh rất có hứng thú học, tạo động cơ học tập tốt.
4/. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học: 
Tránh cách dạy thông báo khô khan tẻ nhạt. Giáo viên phải nắm chắc đặc trưng môn học âm nhạc để có cách dạy cho phù hợp, giờ học âm nhạc phải là giờ học nghệ thuật hấp dẫn với phương châm học vui - vui học . Tránh dạy lý thuyết trừu tượng và dạy Tập đọc nhạc (TĐN) nặng nề, căng thắng. Phải tìm mọi cách cải tiến cách dạy từng phân môn theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hoá cách thức truyền đạt ở mỗi bài học mỗi tiết dạy.
 	* Đối với học hát:
 	Muốn gây hứng thú cho thì vai trò của giáo viên rất to lớn, đó là quá trình chuẩn bị của giáo viên, giọng hát của giáo viên, phong cách biểu diễn ...cách tiến hành dạy hát theo phương pháp dạy truyền miệng (kết hợp với nhạc cụ) từng câu ngắn theo lối móc xích, giáo viên hát mẫu rồi học sinh hát theo, giáo viên có thể đánh đàn giai điệu cho học sinh nghe từng câu ngắn và tập hát lời ca.
Sau khi thuộc bài hát có thể học sinh kết hợp một số động tác phụ họa đơn giản hoặc vận động thân thể theo nhạc (nhịp điệu). Cuối cùng cho học sinh tập biểu diễn thể hiện giọng hát của mình kết hợp động tác phụ hoạ.
*Đối với dạy nhạc lý- Tập đọc nhạc.
 Lâu nay khi dạy về Nhạc lí giáo viên thường định nghĩa, giảng giải ít xuất phát từ thực tiễn âm nhạc qua các ví dụ sinh động để rút ra nhận nhận xét, kết luận. Về tập đọc nhạc các giáo viên chịu ảnh hưởng sâu sắc phương pháp dạy cho học sinh chuyên nghiệp âm nhạc, gây nên tâm lý căng thẳng nặng nề không cần thiết, làm cho học sinh sợ Tập đọc nhạc. Những tiết dạy như vậy thường kém hiệu quả, học sinh không hứng thú học. Vì vậy để tạo cho các em sự hứng thú trong học tập cách dạy tập đọc cao độ nên cho các em dựa vào tiếng đàn làm mẫu của giáo viên, k

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_20152016_Nhac_8.doc