Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN

Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN

Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình. Hội đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực hiện. Các em làm chủ trong mọi hoạt động. Vì vậy tôi thường hướng cho các em tự đề xuất, bàn bạc và đưa ra nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện các quy ước do mình xây dựng và cam kết thực hiện. Như vậy các em tự đề ra các quy ước (dù là quy ước nhỏ nhất) và có trách nhiệm thực hiện các quy ước đó. Điều đó đảm bảo tính dân chủ trong lớp học.

 b.6. Trang trí lớp học

 Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để trang trí cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục học sinh những phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em.

 Việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và hoàn thành một tuần trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực hiện có hiệu quả tôi thường huy động nhiều thành phần tham gia. Ngoài thầy trò trong lớp còn có sự góp sức của các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là của cộng đồng như cha mẹ hay anh chị của học sinh. Tôi thường trao đổi với các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là với Hội phụ huynh học sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất với điều kiện của lớp mình. Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng minh là hữu ích cho công tác quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư ”Điều em muốn nói”, Nhịp cầu bè bạn, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội quy trường lớp, Góc Tiếng Việt, Góc Toán, .

 

doc 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 1118Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công cụ hỗ trợ dạy học trong lớp còn hình thức, chưa thật sự hiệu quả.
Việc ngồi học theo nhóm trong suốt buổi học là điều kiện cho một bộ phận học sinh có cơ hội nói chuyện riêng và còn ỷ lại vào những bạn khá, giỏi.
c. Mặt mạnh- mặt yếu
Mặt mạnh
Mô hình trường học mới tôi nhận thấy bản thân mình đã dần khắc phục được cách dạy học áp đặt một chiều và lối học thụ động của học sinh. 
Cách thức tổ chức lớp học theo các nhóm đã tạo điều kiện cho học sinh được trải nghiệm, khám phá, tự lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ, tương tác giữa học sinh với giáo viên, và quan hệ giữa học sinh với nhau được tăng cường.
Việc dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong Mô hình trường học mới diễn ra thuận lợi. Tiến độ hoàn thành yêu cầu của những đối tượng học sinh khá giỏi trong lớp so với các bạn khác là nhanh hơn nên các em có thời gian để tìm hiểu khám phá những yêu cầu mới cao hơn so với các bạn thông qua những bài tập nâng cao mà giáo viên đã chuẩn bị.
Phong trào cùng học theo con, cùng dạy cho con ở mỗi gia đình trong địa phương càng phát triển và nhân rộng.
Mặt yếu
Giáo viên giảng dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn, thiếu sáng tạo bởi tài liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà làm theo. 
Ngoài ra, không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia mô hình này. Với những em có lực học chưa tốt, tiếp thu chậm thì việc để các em tự học để theo kịp các bạn trong nhóm là khá vất vả. Năng lực hướng dẫn, giảng giải bài giúp bạn của các nhóm trưởng cũng như của các thành viên trong nhóm hạn chế thì giáo viên phải tham gia trợ giúp cho những em có lực học chưa tốt ở các nhóm trở nên vất vả bội phần. 
Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Qua thời gian thực hiện Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là yếu tố người dạy và người học (giáo viên và học sinh). 
Đối với người giáo viên, phải không ngại đổi mới, không ngại loại bỏ thói quen dạy theo lối giảng giải, thuyết trình mà phải thật sự coi trọng việc tự chủ, tự học của học sinh; phải khuyến khích học sinh tự chiếm lĩnh tri thức mới thông qua nhóm học tập, cặp đôi hay quá trình tự học của mình.
Đối với học sinh, các em phải rèn luyện tính tự lập, tự chủ, tự tin trong việc chiếm lĩnh tri thức mới; phải nhạy bén hợp tác với bạn bè, thầy cô cũng như gia đình trong quá trình tự học, tự rèn luyện.
Ngoài ra cơ sở vật chất cũng góp phần quan trọng trong mô hình dạy học này. Với cách bố trí các nhóm học tập, các công cụ hỗ trợ trong lớp học thì đòi hỏi một phòng học đạt chuẩn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện tốt cho quá trình học tập ở lớp diễn ra thuận lợi.
	Ngoài ra, yếu tố gia đình và cộng đồng cũng không kém phần quan trọng. Ở gia đình, các bậc phụ huynh có thể hỗ trợ con em mình trong việc ứng dụng các kiến thức được học tại trường thông qua Hoạt động ứng dụng, hay giúp các em bổ sung, kết nối những nét phong tục truyền thống của địa phương với kiến thức sách vở.
Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Mặc dù còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như những yếu kém của công tác chủ nhệm trong quá trình thực hiện Mô hình trường học mới như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công, những mặt tích cực là chủ yếu.
Học tập theo Mô hình VNEN đã giúp học sinh phát huy tích cực, tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. 
Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động; đồng thời xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp học”, mở nhiều “Hòm thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói” cũng như trang trí lớp học, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, an toàn.
 Bản thân và học sinh của tôi đã thích nghi với môi trường học tập này đã đạt hiệu quả giáo dục khá tích cực. Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ kiến thức của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học.
Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.
Sự tham gia của cha mẹ học sinh có thể giúp trẻ liên hệ nội dung học tập với thực tế cuộc sống. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh, những người sinh sống, làm lụng, gắn bó mật thiết với các em và cộng đồng nơi các em sinh sống chính là nguồn kiến thức, kinh nghiệm thực tế vô cùng quý báu giúp các em liên hệ những điều học được ở trường với cuộc sống xung quanh.
3. Giải pháp, biện pháp
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải quyết, khắc phục những hạn chế, điểm yếu trong khi thực hiện Mô hình trường học mới.
Xác định các bước quan trọng trong quá trình dạy học để phát huy vai trò tự học cũng như hình thành những kĩ năng xã hội cần thiết cho trẻ.
Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Trong Mô hình trường học mới, vai trò, nhiệm vụ của người giáo viên đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm có sự chuyển đổi rõ rệt so với dạy học truyền thống. Theo tôi để đáp ứng yêu cầu đề ra người giáo viên phải thực sự đổi mới về phương pháp dạy - học.
b.1. Đổi mới về phương pháp dạy
Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo Mô hình VNEN, tôi đã thật sự đổi mới phương pháp dạy học. Tôi thật sự đã chuyển đổi vai trò là người truyền thụ kiến thức thành vai trò là người:
Tổ chức lớp học;
Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm;
Hỗ trợ học sinh khi cần thiết;
Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học;
Đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh.
Việc đổi mới này thật sự mang lại hiệu quả trong công tác dạy học bủa mình.
b.2. Đổi mới về phương pháp học
Theo tôi, Mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu thụ động mà chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích, so sánh và tương tác với các bạn trong nhóm, tương tác với giáo viên, với cộng đồng. Chính vì thế nhóm là đơn vị học tập cơ bản trong Mô hình VNEN.
Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học sinh chủ yếu làm việc với nhóm; làm việc với giáo viên, làm việc chung với cả lớp chỉ khi cần thiết.
Do vậy việc phân nhóm tôi thường thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí về sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành của nhóm trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm.
Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo viên kết quả học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần khi hỗ trợ.
	Một nhóm trưởng tốt là tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự tin, cần được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm. Không để tình trạng một số thành viên khá làm thay, làm hộ các thành viên khác trong nhóm.
	Do vậy, vào đầu năm học, tôi thường chọn những học sinh khá, giỏi, có khả năng điều hành nhóm làm nhóm trưởng, bồi dưỡng kĩ năng điều hành cho các em. Tôi thường hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều hành nhóm, hiểu các bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong nhóm đều tích cực, tự giác thực hiện các nhiệm vụ học tập. Những học sinh còn hạn chế năng lực học tập cần được quan tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm. Việc bồi dưỡng nhóm trưởng tốt thì đã đảm bảo sự thành công của Mô hình trường học mới.
	Về thời gian sau tôi mới thực hiện sự luân phiên làm nhóm trưởng; như vậy mới tạo sự bình đẳng giữa các thành viên trong nhóm, giúp tất cả các thành viên trong nhóm tự tin trước mọi người.
	Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc nhóm cũng hết sức quan trọng. Tôi thường hướng dẫn kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh thông qua các tương tác đa chiều, trực diện trong nhóm. Trong một nhóm phải tạo ra các quan hệ giao tiếp, trao đổi hoặc tranh luận giữa các thành viên khi giải quyết một công việc, một nhiệm vụ học tập cụ thể của nhóm. Hình thành cho học sinh kĩ năng trình bày quan điểm, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của bạn, 
	Ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì trong Mô hình trường học mới thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm như chúng tôi cần thực hiện tốt việc quản lí và tổ chức lớp học. Việc quản lí và tổ chức lớp học được tôi thực hiện như sau.
b.3. Nghiên cứu, nắm vững tình hình học sinh của lớp chủ nhiệm
Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên chủ nhiệm lớp là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học sinh. Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình, kế hoạch năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm của lớp.
Bởi vậy ngay từ đầu năm, công việc đầu tiên tôi thường tập trung vào các nội dung sau đây:
Nghiên cứu tình hình gia đình học sinh như trình độ học vấn, nghề nghiệp của cha mẹ học sinh, số con, sự trưởng thành của các con, hoàn cảnh, mức sống, phương pháp giáo dục và những đặc điểm khác...
Nghiên cứu học sinh: số lượng, chất lượng học tập, đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức, tinh thần đoàn kết, phong trào thi đua, truyền thống, ưu, nhược điểm, chỗ mạnh, chỗ yếu của lớp... Đặc biệt quan tâm tới những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực, đạo đức, quan hệ xã hội, bạn bè, tính tình...).
Để nắm vững được năng lực hoạt động tập thể của từng em trong lớp mình làm chủ nhiệm, tôi thường thông qua các kênh thông tin sau:
Căn cứ hồ sơ học bạ , thành tích học tập;
Chú ý hình thức như sức khoẻ, sự linh hoạt năng động;
Ngoài ra từ trực giác cảm nhận;
Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu năm học;
Từ những tài liệu đó giúp cho tôi trong việc xây dựng kế hoạch dạy học, hỗ trợ, bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động giáo dục đến từng học sinh cũng như tập thể lớp một cách có hiệu quả.
b.4. Xây dựng bộ máy tổ chức tự quản của lớp – Bầu Hội đồng tự quản học sinh
	Mục đích xây dựng hội đồng tự quản học sinh là biện pháp giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và ý thức xã hội của học sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong mối quan hệ của các em với những người xung quanh; đảm bảo cho các em tham gia một cách dân chủ và tích cực vào cuộc sống học đường; tạo cơ hội cho các em tham gia toàn diện vào các hoạt động của nhà trường và phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh; giúp các em phát triển kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo, đồng thời cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và bổn phận của mình.
	Trước khi thành lập Hội đồng tự quản học sinh, tôi thường mời các giáo viên bộ môn tham gia giảng dạy ở lớp của mình cũng như phụ huynh học sinh của lớp cùng họp bàn về việc thành lập Hội đồng tự quản. Việc tham gia của phụ huynh học sinh sẽ góp phần làm tăng thêm sự quan tâm của họ đối với việc học tập của con em mình cũng như giúp họ hiểu biết thêm về Mô hình trường học mới góp phần phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và cộng đồng trong việc giáo dục học sinh.
	Hội đồng tự quản gồm Chủ tịch Hội đồng tự quản, các Phó chủ tịch Hội đồng tự quản, các Ban tự quản, trưởng ban, thư kí.
	Thời gian thích hợp để tổ chức bầu Hội đồng tự quản là ngay đầu năm học. Có nghĩa là khi học sinh bắt đầu học chương trình năm học thì bộ máy hội đồng tự quản đã hoàn thiện để điều hành mọi hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp.
	Quy trình bầu Chủ tịch Hội đồng tự quản; các Phó Hội đồng tự quản được tôi tiến hành như sau:
	Cho học sinh nắm được vai trò, nhiệm vụ và quyền lợi của Chủ tịch Hội đồng tự quản; các Phó Hội đồng tự quản.
	Khuyến khích học sinh ứng cử vào Hội đồng tự quản; nhóm đề cử.
	Gợi ý cho các ứng viên xây dựng kế hoạch tranh cử, viết bài thuyết trình (có tư vấn của giáo viên, bạn bè,...).
	Thuyết trình của các ứng viên.
	Bầu cử, công bố kết quả và Hội đồng tự quản nhiệm kì mới ra mắt.
	Thành lập các Ban, bầu trưởng ban, thư kí cũng được tiến hành như sau:
	Căn cứ vào hoạt động của lớp trong năm học, lãnh đạo Hội đồng tự quản họp có sự tham gia tư vấn của giáo viên để dự kiến thành lập các ban tự quản và thường phải thông qua ý kiến của tập thể lớp. Thông thường tôi thường định hướng cho học sinh thành lập các ban như Ban học tập, Ban thư viện, Ban văn nghệ, thể dục-thể thao, Ban vệ sinh, Ban đối ngoại.
	Việc bầu và thành lập các ban do Hội đồng tự quản tổ chức. Tôi thường gợi ý cho học sinh giới thiệu chức năng, nhiệm vụ của các ban; quyền lợi của người tham gia, suy nghĩ của bạn có thể làm gì tốt nhất,...
	Các thành viên Hội đồng tự quản phát cho mỗi bạn một tờ giấy nhỏ ghi tên, nguyện vọng tham gia vào ban nào, sau khi lựa chọn mỗi học sinh dán lên bản quy định cho từng ban mà mình lựa chọn hoặc cũng có thể cho các bạn lựa chọn ban rồi điền tên mình vào cột trên bảng.
	Hội đồng tự quản lập danh sách từng ban và yêu cầu các thành viên trong ban họp bầu trưởng ban và thư kí như bầu lãnh đạo Hội đồng tự quản.
	b.5. Cách thức hoạt động của Hội đồng tự quản
	Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình. Hội đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực hiện. Các em làm chủ trong mọi hoạt động. Vì vậy tôi thường hướng cho các em tự đề xuất, bàn bạc và đưa ra nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện các quy ước do mình xây dựng và cam kết thực hiện. Như vậy các em tự đề ra các quy ước (dù là quy ước nhỏ nhất) và có trách nhiệm thực hiện các quy ước đó. Điều đó đảm bảo tính dân chủ trong lớp học.
	b.6. Trang trí lớp học
	Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để trang trí cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục học sinh những phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em.
	Việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và hoàn thành một tuần trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực hiện có hiệu quả tôi thường huy động nhiều thành phần tham gia. Ngoài thầy trò trong lớp còn có sự góp sức của các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là của cộng đồng như cha mẹ hay anh chị của học sinh. Tôi thường trao đổi với các giáo viên chuyên biệt và đặc biệt là với Hội phụ huynh học sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất với điều kiện của lớp mình. Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng minh là hữu ích cho công tác quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư ”Điều em muốn nói”, Nhịp cầu bè bạn, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội quy trường lớp, Góc Tiếng Việt, Góc Toán, ...
	Hộp thư ”Điều em muốn nói” là công cụ giúp tôi nắm được những ý kiến bày tỏ của học sinh mình. Những ý kiến đó cụ thể như những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị của các em muốn nói về thầy cô, bạn bè, cha mẹ, nhân viên phục vụ, điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi,... mà các em không thể hoặc chưa dám nói trực tiếp. Từ đó tôi có những thông tin quan trọng để hiểu học sinh của mình và quan trọng hơn là để điều chỉnh các hoạt động giáo dục, dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
	Góc sinh nhật là nơi tạo không khí vui tươi trong lớp. Giúp các em biết quan tâm đến bạn bè. Tạo điều kiện để các em biết cách tổ chức các buổi kỉ niệm nho nhỏ. Tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp...
	Từ những công cụ trong lớp, tôi có thể hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa của việc xây dựng các công cụ cũng như việc sử dụng chúng để tham gia vào các hoạt động học tập.Thông qua đó tôi có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển niềm đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kĩ năng sống khác.
	b.7. Phối hợp với cộng đồng cùng tham gia công tác giáo dục
	Trong Mô hình VNEN, nguyên lí giáo dục ”Học đi đôi với hành -Nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội” được thể hiện rõ rệt thông qua tổ chức và quản lí lớp học, đưa những điểm văn hóa, kinh tế, truyền thống lịch sử của địa phương vào nhà trường. Do vậy vai trò của gia đình là rất quan trọng trong việc học tập, giáo dục đối với học sinh.
	Để phối hợp một cách chặt chẽ với gia đình, cộng đồng, ngay từ đầu năm tôi thường bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tuyên truyền tới mỗi gia đình và cộng đồng về Mô hình trường học mới. Chủ động trao đổi, khuyến khích gia đình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường, tạo nên sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
	Các nội dung tôi thường phối hợp với cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục như phối hợp cùng tuyên truyền về Mô hình trường học mới; huy động trẻ đến trường; cùng tham gia trang trí lớp học xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; mời cha mẹ học sinh cùng tham gia dự giờ một số tiết học; mời cha mẹ học sinh lên lớp trong các tiết ngoại khóa như dạy các em hát các làn điệu dân gian của địa phương, nói chuyện lịch sử,... tham gia giúp các em liên hệ nội dung học với thực tế ở địa phương và phát huy năng lực của các em tại nhà.
	c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
	Để thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN có hiệu quả ngoài điều kiện cơ sở vật chất thì điều kiện tiên quyết là quyết tâm đổi mới phương pháp dạy - học, phương pháp tổ chức lớp học, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cộng đồng trong việc giáo dục học sinh, Điều đó có nghĩa là người giáo viên chủ nhiệm phải là hạt nhân của các khâu đổi mới quyết định thành bại trong công tác dạy học theo mô hình VNEN.
Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
	Trong mô hình VNEN, người giáo viên nói chung và đặc biệt là người giáo viên chủ nhiệm phải giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Phải đổi mới phương pháp dạy học giúp các em phát huy tốt các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. 
	Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong đời sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của học sinh, của cộng đồng thông qua hoạt động của nhóm và chính bản thân các em trong mỗi tiết học. 
	Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy học.
	 Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng linh hoạt hoạt động nhóm trong quá trình dạy học.
	Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức nhóm.
	Phải thực hiện tốt việc tổ chức lớp học. Hướng dẫn cho Hội đồng tự quản, các Ban tự quản thực hiện một cách có hiệu quả.
	Tận dụng tốt lợi thế về cơ sở vạt chất (Trường Tiểu

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN TRUC.doc