Đề tài Một số kinh nghiệm chỉ đạo, tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học

Đề tài Một số kinh nghiệm chỉ đạo, tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học

Để thực hiện thành công mô hình VNEN hơn ai hết bản thân người giáo viên phải thực sự có mong muốn tạo ra những thay đổi, tập trung chú ý vào những thay đổi về chiến lược giảng dạy, yêu thương học sinh và tin tưởng rằng tất cả học sinh đều có tiềm năng thành công nếu được trang bị những kĩ thuật học tập đa dạng.

 Đổi mới phương pháp dạy học hiện hành đã phần nào phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên đôi khi vẫn còn nặng về vai trò truyền thụ kiến thức. Một số bộ phận học sinh chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào quá trình học tập và các hoạt động giáo dục; kỹ năng sống hạn chế. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư phạm của mình với phương châm “Chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hổ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Giáo viên phải biết khuyến khích mọi cố gắng, nổ lực, sáng kiến và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để những HS vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Chỉ đạo GV thường xuyên gần gũi, quan tâm đến những đối tượng HS đó.

Chỉ đạo giáo viên tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập của học sinh, không nhất thiết phải thực hiện theo tài liệu hướng dẫn học. Giáo viên phải dựa vào đối tượng học sinh và thực tế của lớp học để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp đó là thay đổi lugo cho phù hợp.

 

doc 24 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1083Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số kinh nghiệm chỉ đạo, tổ chức công tác dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) ở trường tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 và phụ huynh tâm lý hoang mang sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu.
Sách dự án chỉ đủ cho mỗi em 1 bộ, lại chỉ được học trên lớp không được mang về nhà nên học sinh không có thời gian xem bài trước, không phát huy được tính cộng đồng như ý đồ của dự án.
Đồ dùng dạy học phục vụ cho chương trình mới chưa có.
Mô hình học nhóm suốt trong buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh ỷ lại vào người khác, chưa thật tự học, tự nghiên cứu tài liệu. 
 Vì đây là chương trình thử nghiệm nên tài liệu vẫn còn một số chỗ chưa hợp lý. Giáo viên phải nghiên cứu để thay đổi logo cho phù hợp với đối tượng học sinh.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Nguyên nhân của thành công
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Ana. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng ủy và chính quyền địa phương xã Quảng Điền. Sự nhiệt tình hưởng ứng của phụ huynh học sinh. Sự nỗ lực phấn đấu của tập thể hội đồng sự phạm và tập thể học sinh trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi.
Các cấp lãnh đạo quan tâm xây dựng cơ sở vật chất nhà trường đạt chuẩn, đảm bảo cho việc thực mô hình trường học mới. 
Quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của ngành về việc chủ trương tăng cường giảng dạy, đào tạo Mô hình trường học mới (VNEN) trong Ngành Giáo dục – Đào tạo trong nhà trường.
Hiệu trưởng thông báo nội dung, chỉ tiêu và biện pháp thực hiện việc để cán bộ giáo viên và cha mẹ học sinh biết để cùng phối hợp thực hiện. Xây dựng kế hoạch thực hiện với các kỹ năng: Phân tích tình hình thực tiễn ảnh hưởng đến việc làm cùng với chọn lựa cơ sở lý luận để giải quyết, tìm các biện pháp hữu hiệu triển khai thực hiện theo mô hình mới (VNEN) đạt hiệu quả cao nhất. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả việc giảng dạy và học tập của cán bộ giáo viên và học sinh. Quản lý đầy đủ cơ sở vật chất thiết bị, phòng học của nhà trường.
Tổ chức thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, từ đó có biện pháp hỗ trợ để mọi cán bộ giáo viên đều nắm bắt được việc triển khai thực hiện theo mô hình mới (VNEN).
Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính, tự giác, chủ động tham gia 
tìm hiểu thông tin trên mạng để đưa vào bài giảng. Thường xuyên tự đánh giá, rút kinh nghiệm, tìm kiếm thông tin kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng, bổ sung kịp thời những điểm còn yếu trong quá trình thực hiện việc triển khai theo mô hình mới (VNEN) làm đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy.
* Nguyên nhân hạn chế
Đối với giáo viên: Họ lo sợ học sinh không đáp ứng nỗi với cách học mới nên đôi lúc còn làm thay hoặc giảng giải nhiều làm cho học sinh kém tư duy, giáo viên lẫn lộn giữa cái cũ và mới của phương pháp. Giáo án không phải soạn bài nên một số giáo viên chưa thật sự nghiên cứu trước bài khi lên lớp
Đối với học sinh: Một số học sinh thiếu tính chủ động trong nghiên cứu, để bạn làm thay việc cho mình hoặc nhờ người khác hỗ trợ.
Phương pháp đánh giá học sinh rất nhẹ nhàng, thỏa mái, động viên là chính, nên một số học sinh còn chủ quan, thiếu tính phấn đấu.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Khi nhà trường mới bắt đầu tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới còn nhiều bỡ ngỡ.
 Giáo viên tập làm quen với phương pháp dạy học mới, chưa thoát khỏi cách làm cũ, còn làm việc nhiều trong tiết dạy, thậm chí làm thay việc cho học sinh.Một số giáo viên mới ra trường chưa đươc làm quen với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN. Việc tổ chức các hoạt động còn rập khuôn, thiếu sinh động, mang tính hình thức, áp đặt.
 Đánh giá sản phẩm học sinh bằng nhận xét còn thiếu nội dung, chưa cô đọng, việc tổ chức cho học sinh tự quản chưa có kinh nghiệm. Học sinh chưa sử dụng tốt việc đánh giá nhận xét của giáo viên để phát huy hoặc khắc phục những tồn tại. 
Việc điều chỉnh nội dung trong tài liệu hướng dẫn học chưa cụ thể, chưa khoa học, chưa sát với đối tượng học sinh, nội dung chưa sâu. Khi sử dụng nội dung điều chỉnh, giáo viên còn lúng túng, học sinh sử dụng nội dung điều chỉnh vào công tác tự nghiên cứu còn gặp nhiều bất cập.
Việc dạy phân hóa đối tượng học sinh trong lớp giáo viên đưa ra nội dung đôi lúc chưa phù hợp với yêu cầu nội dung bài học và đối tượng học sinh, dẫn đến xa nội dung chưa sát với mục tiêu bài học. Nội dung tăng cường quá khó hoặc quá dễ.
Công tác trang trí lớp nội dung chưa mang tính giáo dục cao và giá trị sử dụng chưa cao. Giáo viên thiếu tương tác và sử dụng chưa hết công năng với các dụng cụ hỗ trợ học tập trong lớp như: nhịp cầu bè bạn, điều em muốn nói, ngày em đến trường, góc thư viện, góc thiên nhiên, sơ đồ cộng đồng... Một số giáo viên còn khoán trắng tiết học cho học sinh, thiếu sự hỗ trợ dẫn dắt của giáo viên. Công tác trang trí lớp theo mô hình cần nhiều kinh phí, việc trang trí lớp học đạt hiệu quả chưa cao.
Học sinh còn nhiều bỡ ngỡ khi tiếp cận với phương pháp học mới, chưa thực sự tự học, tự nghiên cứu. Còn rụt rè chưa mạnh dạn tự tin trước tập thể, nhiều học sinh chưa hợp tác với bạn trong nhóm. Tương tác các dụng cụ hỗ trợ học tập còn hạn chế. Học sinh lớp Một vừa chuyển sang lớp Hai mới làm quen với cách học mới nên chưa biết cách thảo luận, nghiên cứu. Nhóm trưởng và hội đồng tự quản chưa biết cách điều khiển tổ chức các hoạt động. Giáo viên phải bồi dưỡng các kĩ năng tổ chức qua các hoạt động.
 Hội đồng tự quản chưa biết cách tổ chức lớp qua các hoạt động, chưa biết hỗ trợ giáo viên quản lý giờ học, nhận xét trong nhóm và giữa các nhóm. Những hoạt động khởi động dành cho hội đồng tự quản tổ chức nhưng các em làm còn sơ sài, chưa tự tin. Giáo viên chưa dành thời gian để bồi dưỡng nhiều cho hội đồng tự quản, việc luân phiên học sinh làm hội đồng tự quản còn hạn chế nên nhiều em chưa cố gắng, còn tự ti.
Phụ huynh: còn quan niệm “ Một trăm quyển sách hay không bằng một thầy giỏi”. Yêu cầu thầy cô phải giảng bài thì con mình mới hiểu. Không quen với cách đánh giá sản phẩm học sinh bằng nhận xét, thích cho điểm hơn là nhận xét. Việc sử dụng lời nhận xét của giáo viên phụ huynh chưa quan tâm để cùng giáo viên phối hợp giáo dục con em. Các hoạt động ứng dụng phụ huynh thiếu hướng dẫn để các em áp dụng kiến thức đã học vào cuộc sống .
Tài liệu hướng dẫn học còn nhiều thiếu sót yêu cầu người dạy phải biết điều chỉnh nội dung sao cho khoa học, phù hợp với đối tượng học sinh và địa phương. 
Về cơ sở vật chất: Phòng học xây theo quy cách cũ còn chật nên việc bố trí bàn ghế cho học sinh học theo nhóm chưa đủ diện tích. Bàn ghế chưa đúng quy cách. 
Tiết học có sự tham gia của cộng đồng chưa được thực hiện thường xuyên, nội dung truyền đạt của cha mẹ học sinh còn nghèo, tính giáo dục, thuyết phục chưa cao. Giáo viên chưa phối hợp tốt với người báo cáo nên một số tiết học chưa được hoàn hảo. Một số phụ được mời tham dự chuẩn bị cho tiết dạy chưa chu đáo, chưa hiểu hết tầm quan trọng trong truyền đạt nội dung. Một số nội dung truyền đạt chưa diễn tả hết vấn đề cần truyền đạt, thiếu nhiệt tình khi được mời làm công tác truyền đạt.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Khi thực hiện dạy học mô hình trường học mới VNEN , tôi trăn trở phải làm sao để học sinh có được cách học mới phù hợp với sự phát triển của thời đại, biết hỗ trợ, biết tự học, tự vươn lên, biết hợp tác, mạnh dạn, tự tin, cùng nhau phát triển. Giáo viên phải thực sự đổi mới phương pháp dạy học. phụ phải có cách nhìn mới về công tác dạy và học của nhà trường. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất nhà trường, cơ sở vật chất nhà trường ngày một đi lên. Cha mẹ học sinh chấp nhận mô hình dạy học mới, địa phương hỗ trợ cùng nhà trường để thực hiện tốt mô hình nhà trường đang thực hiện.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Một số giải pháp, biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) có hiệu quả:
b.1. xây dựng kế hoạch tổng thể cho một năm học. 
Kế hoạch của nhà trường phải thật sự chặt chẽ phù hợp với thực tế của đơn vị. có lộ trình rõ ràng, mang tính cụ thể và tính chiến lược cao. Có tính dự báo được những thành công và những nguy cơ thách thức. trong kế hoạch cần nêu lên việc củng cố lại bộ máy nhà trường ngay từ đầu năm học để giáo viên thấy được trách nhiệm của mình thực hiện nhiệm vụ tốt hơn. Công tác chuyên môn cần phải làm gì và đổi mới điểm nào. Cần tập huấn chuyên đề như thế nào cho giáo thực hiện giảng dạy được tốt hơn . Xây dựng phát triển cơ sở vật chất những phần nào để phù hợp với mô hình dạy học đang thực hiện. Sau đó đưa ra bàn bạc, thống nhất. trình kế hoạch của đơn vị cho lãnh đạo địa phương và Hội cha mẹ học sinh biết để cùng phối hợp thực hiện.
b.2. Chỉ đạo Làm tốt công tác tuyên truyền 
Ngay từ đầu năm học, Lãnh đạo nhà trường tổ chức cuộc họp với lãnh đạo Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong xã như: Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Khuyến học và Ban đại diện cha mẹ học sinh. Tại cuộc họp này, trường đã giới thiệu rõ các văn bản của Bộ Giáo dục, của Sở và Phòng Giáo dục và Đào tạo về mô hình trường học mới (VNEN) và kế hoạch tổ chức thực hiện của nhà trường để tranh thủ ý kiến chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương, đồng thời tuyên truyền sâu rộng đến các lực lượng xã hội. Hàng tháng, nhà trường luôn tham mưu với cấp ủy đảng, chính quyền địa phương để đưa vào nghị quyết và chỉ đạo các ban ngành đoàn thể phối hợp thực hiện. Nhà trường kết hợp với ban đại diện Hội CMHS để phối hợp giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, trang trí lớp học, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh để đảm bảo một môi trường học tập “xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện”. Nhà trường chỉ đạo cán bộ, giáo viên tuyên truyền đến tận các bậc CMHS để họ nhận thức đúng đắn về vai trò của mình trong nhà trường, giúp phụ huynh thấy được những lợi ích mà mô hình trường học mới sẽ mang lại cho con em họ để họ đồng tình ủng hộ. Chỉ đạo giáo viên mời cha mẹ HS đến tham gia vào các hoạt động của nhà trường của lớp như: Bầu hội đồng tự quản, dự giờ, thăm lớp,... Đồng thời chỉ đạo Liên đội lên bảng tin, cho phát thanh viên tuyên truyền các thành tích và hoạt động nổi bật của nhà trường trong việc thực hiện mô hình trường học mới. 
Tổ chức cuộc họp với các đoàn thể và giáo viên trong nhà trường để quán triệt chủ trương và các công văn hướng dẫn thực hiện, nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên. 
Với cách làm trên, trường chúng tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng ủy, chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể, của Hội CMHS để mở rộng khuôn viên trường, xây dựng thêm nhà để xe, một số bồn hoa cây cảnh và trang trí các lớp học theo mô hình VNEN. Cộng đồng cũng đã hỗ trợ chúng tôi rất nhiều trong việc hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, đặc biệt là hoạt động ứng dụng.
b.3. Chỉ đạo tổ chức tiết học có sự tham gia của cộng đồng.
Hiệu trưởng chỉ đạo bộ phận chuyên môn xây dựng kế hoạch giao chỉ tiêu về các khối lớp phải tổ chức tiết dạy có sự tham gia của cộng đồng. Mục đích hoạt động này làm cho công đồng cùng tham gia giáo dục học sinh. Qua tiết dạy có sự tham gia của cộng đồng các em có điều kiện hiểu biết thêm về lịch sử địa phương, phong tục, tập quán, những món ăn đặc sản, những bài hát dân ca, những điệu hò câu vè  của quê hương mình. Bồi dưỡng thêm cho các em tình yêu quê hương, tình yêu cội nguồn, tự hào về quê hương. Biết tôn tạo, giữ gìn bản sắc dân tộc mà ông cha ta đã dày công vun đắp.
b.4.Chỉ đạo tổ chức tập huấn cho giáo viên, xây dựng ý thức tự học, tự rèn
Việc tập huấn cho giáo viên là một việc làm hết sức cần thiết. Đầu năm học mới Ban lãnh đạo nhà trường đã cử một số giáo viên có năng lực giảng dạy vững vàng đã tham gia lớp tập huấn tại tuyến tỉnh, huyện tổ chức tập huấn lại cho toàn bộ giáo viên trong trường. Việc tập huấn tại trường được thực hiện một cách nghiêm túc. Lớp tập huấn được trang bị đầy đủ tài liệu và đồ dùng phục vụ cho việc học. Lớp được chia thành các nhóm nhỏ để giáo viên được trao đổi, chia sẻ, bàn bạc về tài liệu hướng dẫn học của học sinh, về phương pháp giảng dạy, về hình thức tổ chức lớp học và đưa ra những khó khăn, trở ngại để cùng nhau tìm giải pháp khắc phục. Báo cáo viên tập huấn phải tổ chức cho các học viên tự nghiên cứu, trao đổi, bàn bạc để cùng nhau tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc chứ không được thuyết trình, giảng giải. Ban Lãnh đạo nhà trường phải theo dõi và đánh giá sát đúng ý thức và kết quả tập huấn của giáo viên. Việc tổ chức tập huấn đã giúp giáo viên có được những nhận thức cơ bản, những kiến thức cần thiết về mô hình trường học mới để vận dụng trong quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh. 
 Bên cạnh đó, nhà trường đã làm tốt công tác bồi dưỡng cho giáo viên thông qua dự giờ thăm lớp và qua các buổi sinh hoạt chuyên đề. Chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn và những giáo viên có năng lực trong khối tăng cường dự giờ, giúp đỡ những giáo viên có năng lực giảng dạy còn hạn chế, những giáo viên mới được chuyển về trường. Đồng thời động viên, khuyến khích họ tích cực hơn trong công tác tự học, tự rèn. Trong các buổi sinh hoạt chuyên đề ở trường, ở tổ chuyên môn người chủ trì đã tạo điều kiện để họ được bày tỏ ý kiến và những băn khoăn, trăn trở của mình để được giải đáp. Với cách làm trên, trường đã bồi dưỡng được một đội ngũ giáo viên có năng lực giảng dạy vững vàng.
b.5. Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy
Để thực hiện thành công mô hình VNEN hơn ai hết bản thân người giáo viên phải thực sự có mong muốn tạo ra những thay đổi, tập trung chú ý vào những thay đổi về chiến lược giảng dạy, yêu thương học sinh và tin tưởng rằng tất cả học sinh đều có tiềm năng thành công nếu được trang bị những kĩ thuật học tập đa dạng. 
 Đổi mới phương pháp dạy học hiện hành đã phần nào phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên đôi khi vẫn còn nặng về vai trò truyền thụ kiến thức. Một số bộ phận học sinh chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào quá trình học tập và các hoạt động giáo dục; kỹ năng sống hạn chế. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư phạm của mình với phương châm “Chuyển đổi từ dạy học truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên chỉ hổ trợ và hướng dẫn học sinh khi cần thiết. Giáo viên phải biết khuyến khích mọi cố gắng, nổ lực, sáng kiến và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để những HS vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Chỉ đạo GV thường xuyên gần gũi, quan tâm đến những đối tượng HS đó. 
Chỉ đạo giáo viên tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập của học sinh, không nhất thiết phải thực hiện theo tài liệu hướng dẫn học. Giáo viên phải dựa vào đối tượng học sinh và thực tế của lớp học để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp đó là thay đổi lugo cho phù hợp.
b.6. Chỉ đạo giáo viên dạy phân hóa đối tượng học sinh 
Trong tiết học, nếu học sinh khá giỏi làm xong bài trước, giáo viên cần chuẩn bị những bai tập nâng cao để các em được nhận thêm bài tập nhằm phát huy năng lực học tập của học sinh. Nếu HS làm tốt GV khen ngợi và tuyên dương trước lớp. Nếu HS không làm được giáo viên giúp HS giải quyết và không quên động viên, khích lệ HS. Có thể ra thêm bài tập tương tự để HS làm được, giúp các em thêm tự tin và hứng thú.
b.7. Chỉ đạo giáo viên tổ chức phương pháp học mới cho học sinh
Ở mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà ngược lại các em chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích so sánh và tương tác với các bạn cùng nhóm, tương tác với giáo viên và cộng đồng. Quá trình chiếm lĩnh kiến thức được khởi đầu bằng việc học sinh đọc và viết tên bài học, tiếp đến là việc đọc mục tiêu bài học - đây là việc đầu tiên của HS phải biết mình làm cái gì trong bài học này. Hoạt động cơ bản là quá trình tự trải nghiệm nghiên cứu tài liệu, bắt đầu từ cá nhân và trao đổi trong nhóm. Trình tự bài học đến báo cáo kết quả học tập của cá nhân và nhóm thể hiện tính độc lập tương đối của cá nhân và nhóm. Trong giờ học, giáo viên tổ chức cho các nhóm trưởng điều hành các nhóm hoạt động. Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, các nhóm nghiêm túc học bài và hăng hái thảo luận mỗi khi có chủ đề đưa ra. Với cách làm đó, chúng ta không còn bắt gặp hình ảnh cả lớp ngồi im lặng nghe thầy, cô giáo giảng bài nữa, mà thay vào đó là những nhóm học sinh ngồi thảo luận và làm các bài tập trong tài liệu theo yêu cầu. Qua đó, phát huy tính tích cực, chủ động, ý thức tự học, tự giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác, chia sẻ của học sinh. HS ngày càng mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều. Không khí học tập của học sinh rất sôi nổi và thoải mái. 
Hình ảnh minh họa
 Lớp học 2A , cô Lê Nữ Mộng Huyền Trân chủ nhiệm.
b.8. Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp đánh giá học sinh.
Trước đây việc đánh giá học sinh chủ yếu tập trung vào hoạt động học tập, còn với mô hình VNEN đánh giá học sinh tập trung vào 3 nội dung sau:
Đánh giá hoạt động học tập theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình.
Đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của học sinh tiểu học: a) tự phục vụ, tự quản; b) giao tiếp, hợp tác; c) tự học và giải quyết vấn đề.
Đánh giá sự hình thành và phát triển cấc phẩm chất của học sinh tiểu học.
 Việc đánh giá được thực hiện theo 3 hình thức: Đánh giá thường xuyên, đánh giá định kì và đánh giá tổng hợp cuối học kì 1 và cuối năm học. Việc đánh giá học sinh không dùng điểm số mà ghi nhận xét. Lời nhận xét đánh giá của giáo viên phải hết sức cụ thể, dễ hiểu giúp học sinh biết để phát huy mặt mạnh và khắc phục những hạn chế; giúp phụ huynh biết được rõ hơn về con em mình để có biện pháp hỗ trợ. Việc đánh giá học sinh không chỉ dành riêng cho giáo viên mà còn có sự tham gia của học sinh, phụ huynh và cộng đồng, trong đó đánh giá của giáo viên là quan trọng nhất. Đến nay thông tư 30 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành về đánh giá giá học sinh. Đơn vị rất thuận lợi trong cách đánh giá ví cách đánh của thông tư này gần giống với cách đánh giá trước đây mà đơn vị đã thực hiện.
b.9. Chỉ đạo đổi mới công tác chủ nhiệm
 Lớp học là “hạt nhân” trong “Mô hình trường học mới Việt Nam”. Bàn ghế không kê theo kiểu truyền thống mà được bố trí lại để học sinh ngồi theo nhóm, phù hợp với sự tương tác giữa các bạn trong nhóm và giáo viên. Khác với trước đây, ban cán sự lớp do giáo viên áp đặt và hoạt động theo các yêu cầu của giáo viên. Trong mô hình VNEN, ban cán sự lớp được đổi mới thành “Hội đồng tự quản”. “Hội đồng tự quản” được thành lập là vì học sinh, do học sinh và các em được chủ động tự quản trong các hoạt động của lớp.
Hình ảnh minh họa
 Để có một “Hội đồng tự quản” theo đúng ý nghĩa của nó tôi đã hướng dẫn giáo viên tổ chức học sinh xây dựng kế hoạch một cách rõ ràng. Kế hoạch bầu “Hội đồng tự quản” phải nêu rõ mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tham gia, thời gian tiến hành. Sau đó tổ chức cho các em tiến hành ứng cử, bầu cử. Học sinh được quyền ứng cử, bầu cử một cách dân chủ để chọn ra một “Hội đồng tự quản” chỉ đạo lớp hoạt động. Sau khi thành lập được “Hội đồng tự quản” giáo viên cho các em tự phân công nhiệm vụ. Các thành viên trong lớp được tự do tham gia vào các ban. Các em có thể ghi tên mình vào mảnh giấy hoặc các hình ảnh mà các em thích rồi dán vào ban mình đăng kí. 
“Hội đồng tự quản” cũng có thể được thay đổi trong năm học. Nếu hội đồng tự quản không làm tốt nhiệm vụ giáo viên có thể cho học sinh bầu lại. Mặt khác nếu hội đồng tự quản làm tốt, hết học kì 1 giáo viên cũng có thể cho bầu lại để cho nhiều học sinh có cơ hội được tập làm lãnh đạo. Những học sinh đã làm tốt rồi giáo viên khen ngợi và động viên các em làm cố vấn cho các bạn mới được bầu vào Hội đồng tự quản mới. Như vậy, nhiều học sinh được phát huy năng lực và sở trường của mình. 
 b.10. Chỉ đạo trang trí lớp học
Ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động hướng dẫn giáo viên kết hợp với cha mẹ học sinh, học sinh để trang 

Tài liệu đính kèm:

  • docth_72_0558_2021945.doc