Đề tài Một số giải pháp duy trì sĩ số học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học

Đề tài Một số giải pháp duy trì sĩ số học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học

- Cần nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của bố mẹ trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục tốt con em mình.

- Tạo điều kiện để trẻ đến trường học tập.

e. Giải pháp đối với học sinh DTTS:

- Giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng và mục đích của việc học xóa bỏ tâm lí, quan niệm học cho biết chữ.

- Xây dựng được mối quan hệ thầy trò bằng tình thương.

- Xây dựng mối quan hệ bạn bè tốt để giúp đỡ nhau học tập tiến bộ.

3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp:

a. Giải pháp đối với nhà trường:

Nhà trường có kế hoạch tham mưu thật cụ thể với các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cùng các ban ngành tổ chức đóng trên địa bàn xã chăm lo cho giáo dục về vật chất, tinh thần và đặc biệt là huy động học sinh ra lớp học.

 Khi tham mưu cần phải kiên trì, khéo léo và có tính thuyết phục những vấn đề đưa ra một cách cụ thể.

 Nhà trường phải làm chuyển biến nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành và của các lực lượng xã hội ở trên địa bàn xã về vai trò của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ cho địa phương. Làm cho cấp ủy và chính quyền địa phương thấy rõ “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “ phát triển giáo dục – đào tạo là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” (Trích báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đại hội IX của Đảng tháng 4 năm 2001). Tranh thủ phối hợp và phát huy vai trò tích cực của già làng, trưởng thôn (buôn), hội phụ nữ của thôn buôn trong công tác vận động và tuyên truyền công tác xã hội hóa giáo dục mà đặc biệt là vai trò của công tác giáo dục đối với sự phát triển toàn diện của xã nhà: Thiết kế và chọn lọc kênh thông tin về giáo dục, kinh tế, dân số gắn với thực trạng và phù hợp với trình độ nhận thức của mọi người dân tại địa phương để tuyên truyền có hiệu quả.

 

doc 30 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1512Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số giải pháp duy trì sĩ số học sinh dân tộc thiểu số ở trường Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 quan trọng nhằm thường xuyên đổi mới công tác quản lí, luôn tìm tòi, linh hoạt và sáng tạo trong công tác chỉ đạo giáo viên đứng lớp, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và xây dựng kế hoạch phối kết hợp với chính quyền địa phương, phụ huynh học sinh để thực hiện đồng bộ và có hiệu quả 
công tác duy trì sĩ số học sinh. 
b. Giải pháp đối với giáo viên chủ nhiệm: 
- Nắm bắt kịp thời hoàn cảnh, trình độ của từng học sinh.
- Thay đổi phương pháp dạy học phù hợp với học sinh DTTS, tăng độ hứng thú của học sinh đối với bài giảng, tạo môi trường học tập thân thiện - lấy người học làm trung tâm trong quá trình giảng dạy.
- Có kế hoạch học tập và nâng cao trình độ chuyên môn.
c. Giải pháp từ phía xã hội và cộng đồng: 
- Phát huy vai trò tích cực của công tác xã hội hóa giáo dục.
- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò quan trọng của giáo dục.
- Vận động xây dựng quỹ hỗ trợ về giáo dục đối với học sinh DTTS có hoàn cảnh khó khăn.
- Vinh danh những tấm gương học sinh người DTTS có thành tích cao trong học tập và hiếu học.
d. Giải pháp phối hợp với phụ huynh học sinh:
- Cần nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của bố mẹ trong việc phối hợp với nhà trường để giáo dục tốt con em mình.
- Tạo điều kiện để trẻ đến trường học tập.
e. Giải pháp đối với học sinh DTTS:
- Giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng và mục đích của việc học xóa bỏ tâm lí, quan niệm học cho biết chữ.
- Xây dựng được mối quan hệ thầy trò bằng tình thương.
- Xây dựng mối quan hệ bạn bè tốt để giúp đỡ nhau học tập tiến bộ.
3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp: 
a. Giải pháp đối với nhà trường:
Nhà trường có kế hoạch tham mưu thật cụ thể với các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cùng các ban ngành tổ chức đóng trên địa bàn xã chăm lo cho giáo dục về vật chất, tinh thần và đặc biệt là huy động học sinh ra lớp học.
	Khi tham mưu cần phải kiên trì, khéo léo và có tính thuyết phục những vấn đề đưa ra một cách cụ thể.
	Nhà trường phải làm chuyển biến nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành và của các lực lượng xã hội ở trên địa bàn xã về vai trò của nhà trường là đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ cho địa phương. Làm cho cấp ủy và chính quyền địa phương thấy rõ “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “ phát triển giáo dục – đào tạo là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” (Trích báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII đại hội IX của Đảng tháng 4 năm 2001). Tranh thủ phối hợp và phát huy vai trò tích cực của già làng, trưởng thôn (buôn), hội phụ nữ của thôn buôn trong công tác vận động và tuyên truyền công tác xã hội hóa giáo dục mà đặc biệt là vai trò của công tác giáo dục đối với sự phát triển toàn diện của xã nhà: Thiết kế và chọn lọc kênh thông tin về giáo dục, kinh tế, dân số gắn với thực trạng và phù hợp với trình độ nhận thức của mọi người dân tại địa phương để tuyên truyền có hiệu quả.
Hiệu trưởng mở một hội nghị về công tác duy trì sĩ số, chống học sinh lưu ban, chống học sinh bỏ học và có nguy cơ bỏ học vào đầu mỗi năm học và mời đại diện các cấp ủy đảng, Ủy ban nhân dân xã, các ban ngành, trưởng các thôn buôn, các chi hội khuyến học về tham dự và cùng xây dựng biện pháp phối kết hợp thực hiện công tác duy trì sĩ số học sinh, vận động học sinh đến trường kịp thời.
Đề nghị với Đảng ủy và Ủy ban cùng các ban ngành tổ chức trong xã xây dựng thôn văn hóa, gia đình văn hóa, đưa tiêu chí không có học sinh bỏ học và học sinh trong độ tuổi không đến trường để xét công nhận gia đình văn hoá, thôn buôn văn hóa. Tham mưu tích cực cho hội khuyến học xã và các thôn buôn phát huy vai trò của hội khuyến học để chăm lo cho giáo dục của xã nhà nói chung và của trường Tiểu học Lê Lợi nói riêng. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, tranh thủ huy động mọi nguồn lực đầu tư cho giáo dục nhằm tạo một xã hội học tập đồng thời khen thưởng những giáo viên giỏi các cấp, học sinh năng khiếu các cấp và hỗ trợ động viên những học sinh nghèo vượt khó trong học tập.
Phân công những giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn và nhiệt tình trong công tác làm chủ nhiệm các lớp. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác bàn giao giữa giáo viên chủ nhiệm cũ và giáo viên chủ nhiệm mới để năm bắt tình học tập của lớp kịp thời, rà soát những học sinh hạn chế về năng lực có nguy cơ bỏ học, tìm hiểu hoàn cảnh sống của gia đình, công việc thường ngày và tâm tư nguyện vọng của học sinh, nguyên nhân hay nghỉ học, (khi đến gia đình phụ huynh học sinh phải có sổ nhật kí mang theo để thông báo tình hình của học sinh đồng thời phụ huynh ký xác nhận vào sổ).
 	Công tác vận động học sinh phải thường xuyên liên tục và trở thành phong trào không thể thiếu được trong nhà trường.
Mở các chuyên đề bồi dưỡng những kinh nghiệm nghiệp vụ cho toàn bộ 
đội ngũ giáo viên.
 	Thường xuyên kiểm tra đôn đốc kịp thời các hoạt động của giáo viên chủ nhiệm.
	 Họp giáo viên chủ nhịêm với hiệu trưởng, phó hiệu trưởng 1 lần/tháng. Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng nên dành thời gian đi dự giờ tiết sinh hoạt lớp cuối tuần để nắm bắt tình của học sinh.	
Đưa chỉ tiêu duy trì sĩ số học sinh vào công tác thi đua khen thưởng của năm học đối với công tác chủ nhiệm. 
 	Nhà trường thành lập ban duy trì nề nếp và ban duy trì sĩ số học sinh do hiệu trưởng làm trưởng ban, phó hiệu trưởng, TPT Đội làm phó ban, giáo viên chủ nhiệm làm ủy viên để giúp cho nhà trường về việc vận động khi có học sinh nghỉ học và học sinh có nguy cơ bỏ học.
Lãnh đạo nhà trường chỉ đạo thực hiện tốt công tác, chương trình giáo dục phối hợp với gia đinh học sinh, với ban đại diện cha mẹ học sinh:
Vào đầu năm học, lãnh đạo nhà trường phối kết hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh năm học cũ để tổ chức tốt hội nghị phụ huynh học sinh nhằm bầu ra ban đại diện cha mẹ học sinh của trường và lớp. Ban đại diện cha mẹ học sinh ba tháng họp với ban giám hiệu nhà trường một lần nhằm có những ý kiến đề nghị về công tác giảng dạy, giáo dục cho học sinh và họp định kỳ phụ huynh học sinh vào đầu năm học, cuối kỳ I và cuối năm học. Qua các kỳ họp, hiệu trưởng cũng cần lưu ý đến các bậc phụ huynh thường xuyên quan tâm đến quản lý về ngày giờ đến trường của con em mình; theo dõi thời khóa biểu, lịch học ngoại khóa, lịch học phụ đạo. Quan tâm xem con em mình thường tiếp xúc với bạn bè như thế nào để nắm bắt điều chỉnh kịp thời. Hướng dẫn cho cha mẹ học sinh nắm được các biện pháp kiểm tra theo dõi học tập và rèn luyện của học sinh và tạo điều kiện cho con em được đến trường học tập.
Nhà trưởng phải phối hợp tốt với ban đại diện cha mẹ học sinh và phụ huynh học sinh để làm tốt các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
	Thực hiện trách nhiệm phối hợp giáo dục đạo đức, giáo dục văn hóa, hỗ trợ nhà trường trong công tác hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. 
	Vận động cha mẹ học sinh, các lực lượng xã hội hỗ trợ nhà trường trong công tác giáo dục như quản lý con em khi ở nhà, tác động đến gia đình, hạn chế học sinh lưu ban, học sinh có nguy cơ bỏ học và chăm lo giáo dục đạo đức nề nếp khi sống và sinh hoạt tại địa phương, góp phần tạo môi trường lành mạnh ở địa bàn và phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào nhà trường (HIV/AISD,
 ma túy, uống rựơu, hút thuốc).
	Vận động cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội ủng hộ, hỗ trợ để tu bổ mua sắm cơ sở vật chất, thiết bị cho nhà trường; góp phần cải thiện đời sống tinh thần vật chất cho giáo viên; khen thưởng học sinh năng khiếu, giúp đỡ học sinh nghèo, xây dựng môi trường học tập thân thiện.
 	Lãnh đạo nhà trường phối kết hợp với Công đoàn, Đoàn, Đội: 
 	Đối với công đoàn: Phối kết hợp với nhà trường để tuyên truyền các cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí minh”; cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung; cuộc vận động “ Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; hưởng ứng tích cực phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.	 
Đẩy mạnh các phong trào thi đua dạy tốt học tốt làm tốt công tác vận động, động viên cán bộ giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; cùng nhà trường xây dựng cơ quan văn hóa và xây dựng khối đoàn kết nội bộ.
Đối với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Nhà trường cần phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ công tác của Tổng phụ trách Đội để định hướng cho họ thực hiện tốt trách nhiệm của mình.
	Tổ chức các phong trào thi đua thiết thực và động viên khen thưởng kịp thời những đội viên có nhiều cố gắng trong học tập và rèn luyện. Tổ chức tốt các hoạt động sinh hoạt với nhiều hình thức đa dạng phong phú nhằm thu hút sự tham gia họat động của học sinh. Tổ chức tốt phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao để học sinh có cơ hội thể hiện năng khiếu, tài năng của mình, thu hút học sinh đến trường, làm cho các em thấy được đi học vui và bổ ích hơn ở nhà, nhằm phục vụ cho công tác dạy và học.
	Tổng phụ trách Đội thường xuyên phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp (anh chị phụ trách đội) để giáo dục đạo đức, nề nếp đội viên kịp thời.
	Tổ chức phối kết hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường để tổ chức các hoạt động phong trào và hoạt động công ích như: phong trào nuôi heo đất, áo trắng tặng bạn và xây dựng quỹ tình thương.
b. Giải pháp đối với giáo viên chủ nhiệm: 
 	Đã nhiều năm làm giáo viên chủ nhiệm lớp, phần nào đã có chút ít kinh nghiệm nhưng tôi vẫn thấy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học là rất nặng nhọc, rất phức tạp. Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì phải vừa là một giáo viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để hiểu học sinh, để xử lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế 
nhị và đạt hiệu quả giáo dục cao. Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, 
Không có tinh thần trách nhiệm cao thì khó mà hoàn thành nhiệm vụ. 
Giáo viên chủ nhiệm dựa trên kế hoạch của nhà trường để lên kế hoạch lớp theo năm, tháng và tuần.
 	Ngay từ đầu năm học, tiến hành khảo sát chất lượng và phân loại đối tượng học sinh của lớp. Chú trọng phân loại học sinh còn hạn chế theo các nguyên nhân chủ yếu sau: do mất kiến thức căn bản từ lớp dưới, do ham chơi, do hoàn cảnh gia đình, lên kế hoạch bồi dưỡng học sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh hạn chế về năng lực học tập một cách cụ thể, thiết kế bài dạy phải phù hợp với từng đối tượng dạy học của lớp mình, đặc biệt chú trọng học sinh người DTTS còn hạn chế về năng lực học tập và hoàn cảnh khó khăn, có nguy cơ bỏ học. Giáo viên phải xác định được mức độ hạn chế của mỗi học sinh như: hạn chế về mặt nào? Môn gì? Kiến thức gì? Giáo viên có hồ sơ theo dõi từng em về biện pháp khắc phục đề ra sự chuyển biến của từng em sau mỗi tháng học.
Trong một học kỳ giáo viên phải đến thăm phụ huynh học sinh ít nhất ½ lượt học sinh của lớp mình phụ trách. Đặc biệt thường xuyên quan tâm, thăm hỏi, động viên kịp thời đối với học sinh DTTS có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có nguy cơ bỏ học.
	Giáo viên chủ nhiệm tham gia sinh hoạt 15 phút đầu giờ và nâng cao chất lượng tiết sinh hoạt cuối tuần, đánh giá nhận xét lớp khoảng 10-15 phút thời gian còn lại tổ chức các hoạt động văn nghệ, thơ, ca (tránh tình trạng biến tiết sinh hoạt cuối tuần thành những hình phạt, phê bình kiểm điểm học sinh làm cho học sinh chán nản và tiêu cực). Đối với học sinh thường xuyên nghỉ học với những lí do không chính đáng, giáo viên cần nhẹ nhàng phân tích cho các em thấy việc nghỉ học của mình làm ảnh hưởng như thế nào đến kết quả học tập, phẩm chất của bản thân, đến lớp, thầy cô và bạn bè, từ đó các em nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ của người học sinh và cố gắng đi học chuyên cần hơn.
	Hàng tháng giáo viên chủ nhiệm phải thông báo kết quả học tập cho học sinh qua sổ liên lạc hoặc điện thoại vào cuối tháng.
 	Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, giáo viên chủ nhiệm phối kết hợp với giáo viên bộ môn chuẩn bị tốt bài giảng và sử dụng khai thác thiết bị dạy học một cách triệt để và có hiệu quả, phối kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh người kinh, học sinh người DTTS của lớp để truyền đạt hướng dẫn học sinh học tập một cách có hiệu quả nhất. Đơn giản hóa kiến thức, lối truyền đạt đối với học sinh DTTS.
 	Giáo viên phải giao tiếp được bằng tiếng dân tộc nơi công tác và xem việc 
giảng dạy bằng “song ngữ” là điều cần thiết đối với học sinh người DTTS.
 	Đối với học sinh còn hạn chế về năng lực thường không hứng thú học tập, rụt rè và tự ti, chính vì vậy giáo viên cần tăng cường các trò chơi, hình thức học tập sinh động trong tiết học, giáo viên lưu ý phải để cho học sinh còn hạn chế về năng lực tham gia và phải biết được trong hình thức học tập đó học sinh tham gia được ở phần nào. Đối với học sinh DTTS, tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ nên giáo viên cần chú trọng việc tăng cường tiếng Việt trong mỗi tiết học, tạo cơ hội cho các em được giao tiếp bằng tiếng Việt nhiều hơn, nhằm rèn các kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh, để giúp các em tiếp thu kiến thức bài học một cách dễ dàng hơn.
 	Mặt khác để giúp học sinh DTTS còn hạn chế về năng lực học tập có kết quả tiến bộ, hàng ngày giáo viên cần tìm những công việc nhỏ ở lớp phù hợp với khả năng của các em giao cho các em làm, giúp các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình được thầy cô tin tưởng giao phó nhiệm vụ trước lớp, từ đó các em thêm tự tin, mạnh dạn, yêu trường, yêu lớp, ham học và cố gắng phấn đấu để học tập tiến bộ hơn.
 	Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với tổ chức Đoàn - Đội trong nhà trường tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hội thi giúp học sinh củng cố và mở rộng kiến thức. Chú ý nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động phải đảm bảo mọi đối tượng đều được tham gia, tránh các cuộc thi chỉ dành cho một đối tượng học sinh năng khiếu tham gia. Qua mỗi cuộc thi giúp các em ôn lại kiến thức, học sinh còn hạn chế về năng lực sẽ ham học và cố gắng hơn. Ngoài ra đối với học sinh có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, thiếu điều kiện học tập, thiếu tình yêu thương của bố mẹ, cần phát động phong trào “Kế hoạch nhỏ”, tiết kiệm tiền đóng góp hàng ngày để mua sách vở, quần áo, làm nguồn động viên, an ủi giúp các em vơi đi những khó khăn mà các em phải gánh chịu, vui vẻ và thích đi học hơn, đồng thời giáo dục cho các em tinh thần tương thân tương ái, giúp bạn vượt khó để học tập.
Giáo viên chủ nhiệm tổ chức mọi hoạt động, kế hoạch chương trình phải có mục tiêu cụ thể, phải được đánh giá chính xác, kịp thời. Hoạt động giáo dục đòi hỏi việc đánh giá thận trọng, khách quan, công bằng trung thực, tế nhị đúng lúc, đúng nơi. Mục đích đánh giá là giúp học sinh tự điều chỉnh, tự khẳng định mình, lạc quan, tự tin hơn trong học tập và rèn luyện.
 	Giáo viên không ngừng học tập, nghiên cứu, trau dồi năng lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân, nhằm đáp ứng kịp với từng giai 
đoạn phát triển của giáo dục.
 	c. Giải pháp từ phía xã hội và cộng đồng:
* Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hoá giáo dục.
Thực tế đã chứng minh rằng, một trong những nguyên nhân thành công hoặc chưa thành công trong việc tổ chức thực hiện xã hội hoá giáo dục chính là vấn đề nhận thức. Tất cả mọi người trong cộng đồng phải hiểu đúng bản chất của xã hội hoá giáo dục, sự cần thiết phải tham gia giáo dục, từ đó nâng dần tính tự giác, tích cực, chủ động, tình cảm và năng lực hoàn thành công việc này. Vì vậy, phải tăng cường công tác tuyên truyền, vận động cung cấp thông tin một cách đầy đủ về đường lối, mục đích, chủ trương, yêu cầu, thuận lợi, khó khăn nhằm làm chuyển biến nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân theo hướng tích cực về vị trí hàng đầu của giáo dục, về bản chất, nghĩa vụ và quyền lợi của xã hội hoá giáo dục để quần chúng có đủ hiểu biết, chủ động tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục.
 	Để làm được điều này, tôi đã quan tâm tới các vấn đề sau:
+ Trước hết phối hợp với cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương; giáo viên và các ban ngành đoàn thể sau đó đến toàn dân tổ chức học tập, quán triệt các văn bản, nghị quyết, chỉ thị có liên quan đến giáo dục và xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để mọi người đều nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách vận dụng vào thực tiễn.
+ Xây dựng các góc tuyên truyền ở trường, lớp và ở cộng đồng: chọn một góc thuận lợi (vị trí mà mọi người dễ trông thấy) tại trường làm góc tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh. Tại đó, có các tài liệu, tranh ảnh với những nôị dung thiết thực như tổ chức nuôi dạy con, những yêu cầu mà các bậc cha mẹ, cộng đồng cần phối hợp với nhà trường, tuyên truyền các điển hình tham gia đóng góp xây dựng giáo dục, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, làm kinh tế giỏi. Nội dung các tài liệu trưng bày cần được biên soạn ngắn gọn, thiết thực, luôn thay đổi, cập nhật thông tin, hình thức hấp dẫn để mọi người dễ xem, dễ ghi nhớ. Giúp các bậc cha mẹ học sinh có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc học tập đối với tương lai của con trẻ, thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, cải tiến phương thức sản xuất, chăn nuôi, để phát triển kinh tế gia đình, tạo điều kiện cho con em được đi học đầy đủ, chuyên cần.
+ Kết hợp việc cung cấp thông tin ở các góc tuyên truyền, nhà trường bố trí “Hòm thư góp ý” để các bậc phụ huynh và người dân có thể tham gia đóng góp ý kiến với nhà trường về những vấn đề như: nội dung, phương pháp dạy học, tìm hiểu phương pháp nuôi dạy con hay về các vần đề mà phụ huynh học sinh chưa 
rõ.
+ Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Phối hợp với đài truyền thanh xã tổ chức tuyên truyền sâu rộng, thiết thực trong nhân dân và cha mẹ học sinh thông qua hệ thống phát thanh hàng ngày nhằm tạo chuyển biến trong nhận thức và hành động của nhân dân trong công tác tham gia xã hội hoá giáo dục. 
Những việc chúng tôi đã làm chỉ là một trong nhiều "kênh" thông tin góp phần nâng cao nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân về giáo dục. Các lực lượng xã hội và nhân dân đều nhận thức được rằng chỉ có thể làm tốt xã hội hoá giáo dục mới có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của gia đình, của xã hội, nhằm mục đích xây dựng con người mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở mục tiêu giáo dục, mỗi cơ quan đoàn thể, mỗi cá nhân trong cộng đồng đều tham gia vào một số công việc phù hợp với khả năng và điều kiện của mình góp phần thiết thực vào công tác xã hội hoá giáo dục ở địa phương mình đang sinh sống, mọi người thấy rằng chỉ có thể làm tốt xã hội hoá sự nghiệp giáo dục mới có thể tạo điều kiện phát triển kinh tế- xã hội; Giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của toàn dân, kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: nhà trường - gia đình - xã hội sẽ tạo được môi trường giáo dục lành mạnh, thống nhất ở mọi nơi, mọi lúc, trong từng gia đình, từng tập thể, cộng đồng và có như vậy mới có thể có kết quả giáo dục như mong muốn.
* Tổ chức các hoạt động, phong trào tạo động lực trong việc huy động tiềm năng của cộng đồng để phát triển giáo dục.
Vị thế của giáo dục chỉ thực sự được tôn vinh một khi xã hội thừa nhận. Chính vì vậy, nhà trường phải biết thiết kế, tổ chức các hoạt động, các phong trào có sự chứng kiến, tham gia trực tiếp của cộng đồng, đó là biện pháp làm thay đổi bộ mặt giáo dục. Ví dụ: tổ chức“ Ngày toàn dân đưa trẻ đến trường”, tổ chức “Tháng hành động vì trẻ em” nhằm vận động cha mẹ học sinh quan tâm chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất có thể cho con em học tập, vui chơi; có trách nhiệm cùng với nhà trường chăm sóc, nuôi dạy con tốt. Đây cũng là dịp vận động nhân dân, các cơ quan, các tổ chức xã hội cùng tham gia 
xây dựng, sửa chữa trường lớp, mua sắm trang thiết bị, đồ dùng phục vụ việc dạy học.
Bên cạnh đó, bằng việc tổ chức các hội thi trong năm học như: Giao lưu tiếng Việt cho học sinh DTTS, rung chuông vàng, tổ chức Trung thu, thi hát dân ca, đã thu hút được sự quan tâm đông đảo các lực lượng xã hội, mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ở địa phương. Trong các cuộc thi này không chỉ đơn thuần có sự tham gia của thầy và trò mà còn thu hút được sự tham gia của các bậc cha mẹ, ông bà, hội cha mẹ học sinh, hội phụ nữ, cá nhân, trên địa bàn. Qua đó sẽ kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của họ cho các vấn đề liên qu

Tài liệu đính kèm:

  • docth_61_9262_2021934.doc