Đề tài Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh trường tiểu học đinh Tiên Hoàng

Đề tài Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh trường tiểu học đinh Tiên Hoàng

Trong tất cả các môn học, hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh phải là hoạt động ưu tiên. Giáo viên cần coi trọng việc cho học sinh đọc tốt nội dung trước khi khai thác tìm hiểu bài. Các em sẽ được đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh,. các kênh chữ, các đoạn văn bản chứa nội dung cần khai thác trước.

 Ví dụ: Với giáo viên dạy Âm nhạc, khi dạy bài hát Bàn tay mẹ (lớp Hai), giáo viên sẽ ưu tiên hoạt động đọc lời bài hát nhiều hơn bình thường. Thay vì chỉ đọc 2 lần lời bài hát , cô sẽ cho học sinh dân tộc đọc 4-5 lần. Thay vì mỗi lượt là một em đọc bài hát, giáo viên cho học sinh dân tộc thiểu số đọc 1 hoặc 2 câu nối tiếp. Như vậy, sẽ nhiều em được đọc. Các em được đọc thành tiếng nhiều lần, cô phải chú ý theo dõi sửa sai cụ thể nhờ thế kỹ năng đọc được nâng cao hơn, các hoạt động khác có thể ít thời gian hơn.

 Với giáo viên dạy các môn Tin học, Thể dục hay Mỹ thuật, Thủ công cũng tương tự. Tùy vào thực tế bài dạy mà sử dụng thời gian để ưu tiên cho học sinh được đọc cá nhân nhiều hơn. Ví dụ đọc kênh chữ trong phần hướng dẫn thực hành trước khi thực hành trên máy ở môn Tin học, đọc phần giới thiệu, nhận xét ở môn Mỹ thuật hay thậm chí có thể đưa một văn bản ngắn như một hiệu lệnh, một trò chơi để học sinh đọc trước khi thực hiện trong môn Thể dục.

Trong các hoạt động giáo dục khác, giáo viên cũng càn chú ý kỹ năng đọcthành tiếng cho học sinh. Phần thiết kế chương trình bao giờ cũng lưu ý có nội dung cho học sinh đọc. Tạo điều kiện cho các em được giao lưu để phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động đọc.

Năm học 2016-2017, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng là một trong bảy trường tiểu học của huyện Krông Ana được tổ chức Room to Read chọn tổ chức thư viện thân thiện. Thư viện thân thiện được thiết lập và đưa vào hoạt động. Rất nhiều điều thú vị và bổ ích cho học sinh khi tổ chức hoạt động này. Học sinh được đọc nhiều sách, truyện hay, nội dung phong phú trong không gian đẹp. Việc này góp phần kích thích các em muốn đến thư viện. Ngoài ra, mỗi tuần các em sẽ có 01 tiết đọc thư viện. Tiết đọc thư viện có nhiều hình thức đọc đa dạng, từ đó các em cũng được rèn nhiều kỹ năng đọc.

 

doc 27 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1118Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Kinh nghiệm chỉ đạo thực hiện dạy kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh trường tiểu học đinh Tiên Hoàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hệ thống, nguyên tắc gắn liền lí thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học... Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng những nguyên tắc này theo đặc trưng riêng của mình. Ví dụ nguyên tắc gắn liền lí thuyết và thực hành trong phương pháp dạy học Tiếng Việt đòi hỏi một hoạt động lời nói thường xuyên, biểu hiện ý nghĩ bằng lời nói, viết, cùng với việc thường xuyên vận dụng những hiểu biết lí thuyết trong bài tập. Nhiệm vụ phát triển lời nói đã quy định việc xây dựng chương trình Tiếng Việt mà tất cả các phân môn đều có mục đích phát triển bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. 
	Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia và là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường nên phải xác lập việc dạy tiếng Việt có "quán triệt đặc điểm dân tộc" Việc tính đến đặc điểm dân tộc đòi hỏi coi trọng biện pháp quy nạp, biện pháp trực quan, biện pháp giao tiếp, đặc biệt là biện pháp được nâng lên như một phương pháp "biện pháp đối chiếu” (PGS.Trương Dĩnh). Có thể đối chiếu trên tất cả cấp độ ngôn ngữ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách,... theo hướng đối chiếu tương đồng để việc dạy học có hiệu quả.
	Các căn cứ để thực hiện là Công văn 896/BGDĐT-GDTH ngày 13-2-2006 về Hướng dẫn điều chỉnh việc dạy và học cho học sinh tiểu học; Công văn số 9832/ BGDĐT-GDTH ngày 1-9-2006 về Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5; Công văn số 1015/SGDĐT-GDTH “Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông cấp tiểu học” 
Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 1008/QĐ-TTg củaThủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số”. ngày 17/8/2016. 
Công văn số 8114/BGDĐT-GDTH về việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số.
	2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu 
	Dạy học tiếng Việt, trong đó có hoạt động rèn cho học sinh kỹ năng đọc là hoạt động thường xuyên, liên tục trong từng tiết học và được dạy từ lớp Một đến lớp Năm của bậc học tiểu học. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới các kỹ năng dạy học đã được tập huấn và triển khai trong nhiều năm nay thì chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung và chất lượng đọc thành tiếng của học sinh nói riêng cũng đã có nhiều chuyển biến đáng kể. 
	Nhiều năm nay, học sinh dân tộc thiểu số trong trường không còn hiện tượng lên lớp năm rồi mà còn đánh vần, đọc không ra văn bản nhưng thực tế thì chất lượng đọc ở nhiều em chưa đáp ứng được Chuẩn kiến thức kỹ năng cần đạt.
	Đa số các em đọc còn sai dấu câu( Đây là lỗi phổ biến nhất). Phát âm sai phần vần, đọc sai chữ, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đúng nhịp. Các em còn đọc rất chậm và rất nhỏ, đọc không đúng tốc độ, ngắt ngứ dẫn đến việc không diễn đạt được trọn vẹn câu, người nghe khó hiểu. Đọc quá nhỏ cả lớp và cô không nghe được.
	Việc học trong đó đa phần là sinh dân tộc thiêu số đọc thành tiếng chưa đảm bảo yêu cầu là do nhiều nguyên nhân:
	- Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em. Học tiếng Việt đối với các em sẽ gặp khó khăn gấp đôi so với học sinh người Kinh. Các em lớp Một đến trường với vốn từ vựng tiếng Việt vô cùng hạn hẹp, kiến thức ngữ pháp và kỹ năng giao tiếp tiếng Việt ít ỏi. 
	- Mặc dù cả trường đã tổ chức dạy học 9 buổi/ tuần, mỗi tuần các em có 32 tiết thực học ở lớp nhưng vì đòi hỏi của môi trường, đòi hỏi của xã hội phát triển nên số lượng các môn học cũng nhiều hơn trước đây. Vì thế thời lượng dành cho môn Tiếng Việt không nhiều.
	- Vì không đánh giá đúng yêu cầu và tầm quan trọng của việc đọc thành tiếng trong môn Tiếng Việt nên giáo viên chưa ưu tiên dành nhiều thời gian để tổ chức cho hoạt động này vì thế hiệu quả không cao.
	- Phương pháp và hình thức tổ chức đọc không đa dạng vì thế các em dễ nhàm chán, không tập trung và không chú ý đọc.
- Chưa làm tốt công tác phối hợp với gia đình nên không tận dụng được thời gian ở nhà để các em luyện đọc. Cùng với thực tế thời gian đọc ở lớp là quá ít nên các em không được rèn đọc nhiều vì thế ảnh hưởng đến chất lượng đọc.
Cuối năm học 2014-2015: Chất lượng đọc của học sinh như sau:
Khối lớp
Tổng số học sinh
HS đọc diễn cảm tốt
HS đọc to, rõ, trôi chảy
HS đọc đạt yêu cầu( Đạt Chuẩn KT-KN)
HS đọc còn chậm, nhỏ, sai nhiều
HS chưa đọc được
Khối 1
66
3
4,5%
26
39,4%
26
39,4%
8
12,1%
3
4,5%
Khối 2
78
4
5,1%
28
35,9%
39
50%
5
6,4%
2
2,5%
Khối 3
63
5
7,9%
14
22,2%
37
58,7%
6
9,5%
1
1,6%
Khối 4
66
7
10,6%
25
37,9%
30
45,5%
4
6,0%
Khối 5
66
9
13,6%
20
30,3%
34
51,5%
3
4,5%
Cuối năm học 2015-2016: Chất lượng đọc của học sinh như sau:
Khối lớp
Tổng số học sinh
HS đọc diễn cảm tốt
HS đọc to, rõ, trôi chảy
HS đọc đạt yêu cầu( Đạt Chuẩn KT-KN)
HS đọc còn chậm, nhỏ, sai nhiều
HS chưa đọc được
Khối 1 
50
1
2,0%
22
44,0%
19
38,0%
6
12,0%
2
4,0%
Khối 2
67
6
8,9%
15
22,4%
41
61,2%
4
5,9%
1
1,5%
Khối 3
78
7
8,9%
27
34,6%
40
51,3%
4
5,1%
Khối 4
59
8
13,5%
27
45,8%
21
35,6%
3
5,1%
Khối 5
65
11
16,9%
29
44,6%
23
35,4%
2
3,1%
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
	a. Mục tiêu của giải pháp
Các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, đưa ra các biện pháp ưu tiên trong việc dạy hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh. Các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng đọc.
	b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
	1. Tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt
	Xác định môn Tiếng Việt là môn học công cụ, tôi đã giao quyền chủ động cho giáo viên và các tổ khối trưởng tự lên thời khóa biểu, lựa chọn môn học và nội dung giáo dục ưu tiên trong các tiết tăng thêm. Trong đó lưu ý ưu tiên thời lượng cho môn Tiếng Việt.
	Trong 3 năm học này, ở học kỳ I khối Một và Hai luôn dành thời lượng tăng thêm cho môn Tiếng Việt 6-8 tiết/tuần. Sang học kỳ II, tùy lớp, tùy thực tế học sinh có thể giảm bớt 2-3 tiết Tiếng Việt để tăng cho môn Toán.
	Ở khối lớp Một và Hai, vì môn học theo quy định ít hơn các lớp trên nên thời lượng để tăng cường cho môn Tiếng Việt nhiều, thuận lợi cho giáo viên và học sinh. 
Việc tăng thời lượng cho môn Tiếng Việt trong năm học 2016-2017 này không áp dụng được cho khối lớp 4 và 5 vì tổng tiết học của các môn theo quy định đã là 32 tiết.
	Vì thế, với khối lớp 4 và 5, giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn phải chú ý ưu tiên cho hoạt động đọc cho học sinh trong tất cả các môn học, trong mọi hoạt động. Chủ động tăng thời lượng cho hoạt động đọc trong tiết Tập đọc cũng như trong tất cả các môn học khác.
* Số tiết được dạy trong hai năm học 2015-2016 và 2016-2017 như sau:
Khối
Môn học
Tổng số tiết thực dạy
Số tiết theo quy định
Số tiết tăng thêm
Toán
6
4
2
Tiếng Việt
16
10
6
Âm Nhạc
1
1
1
Mĩ Thuật
1
1
Đạo đức
1
1
Thủ công
1
1
TNXH
1
1
Thể Dục
1
1
SHTT
2
2
Tiếng Anh
2
2
Thư viện
1
1
Tổng
32
Khối
Môn học
Tiết
Số tiết theo quy định
Số tiết tăng thêm
Tiếng Việt
14
8
6
Toán
7
5
2
2
Mĩ Thuật
1
1
Đạo đức
1
1
Thủ công
1
1
Thể Dục
2
2
SHTT
2
2
Tiếng Anh
1
1
Thư viện
1
1
TNXH
1
1
Tổng
32
Khối
Môn học
Tiết
Số tiết theo quy định
Số tiết tăng thêm
Tiếng Việt
9
8
1
Toán
6
5
1
TNXH
2
2
Âm Nhạc
1
1
3
Mĩ Thuật
1
1
Đạo đức
1
1
Thủ công
1
1
Thể Dục
2
2
SHTT
2
2
Tiếng Anh
4
4
Thư viện
1
1
Tin học
2
2
Tổng
32
Khối
Môn học
Tiết
Số tiết theo quy định
Số tiết tăng thêm
Tiếng Việt
8
8
Toán
5
5
Khoa học
2
2
Âm Nhạc
1
1
4
Mĩ Thuật
1
1
Đạo đức
1
1
Kĩ Thuật
1
1
Thể Dục
2
2
SHTT
2
2
Tiếng Anh
4
4
Lịch sử
1
1
Địa lý
1
1
Thư viện
1
1
Tin học
2
2
Tổng
32
32
Khối
Môn học
Tiết
Số tiết theo quy định
Số tiết tăng thêm
Tiếng Việt
8
8
Toán
5
5
Khoa học
2
2
Âm Nhạc
1
1
5
Mĩ Thuật
1
1
Đạo đức
1
1
Kĩ Thuật
1
1
Thể Dục
2
2
SHTT
2
2
Tiếng Anh
4
4
Lịch sử
1
1
Địa lý
1
1
Thư viện
1
1
Tin học
2
2
Tổng
32
32
Việc ưu tiên dành nhiều thời gian cho môn Tiếng Việt đã giải quyết được nhiều vấn đề trong đó quan trọng nhất là cô trò đã có khoảng thời gian thích đáng cho việc rèn luyện kỹ năng đọc thành tiếng.
	Với học sinh dân tộc thiểu số, một tiết học vần ít ỏi không thể nào giáo viên hoàn thành mục tiêu bài học. Vì thế, tiết tăng thêm chính là giải pháp, tiết học này cô trò không phải bó buộc về thời gian. Giáo viên có thể tổ chức dạy phân hóa đối tượng học sinh. Tổ chức cho học sinh năng khiếu, học sinh người Kinh, học sinh đã đọc tốt, học sinh đã đạt chuẩn làm các loại bài tập khác hoặc luyện đọc các nội dung mới. Với học sinh chưa đọc tốt, giáo viên dành thời gian đến tận nơi hướng dẫn đọc. Các em cần được rèn phát âm chuẩn, cần được hướng dẫn cách đọc cho to, rõ ràng, cách đọc đúng.
Việc tăng thời lượng dạy cho môn Tiếng Việt không chỉ là tăng thêm số tiết để dạy mà còn tăng thời gian trong các tiết dạy. Vận dụng công văn số 5842/BGD-ĐT, Công văn 896/BGD-ĐT và các hướng dẫn khác. Căn cứ tình hình thực tế của học sinh, giáo viên có thể giảm thời lượng cho các tiết học khác để tăng thời lượng cho môn tiếng Việt. Ví dụ: Ở tiết Thủ công, khi dạy bài xé dán ngôi nhà, nếu đa số học sinh đã thao tác tốt hoạt động xé dán, giáo viên có thể kết thúc tiết học sớm hơn 40 phút. Sau đó, ở tiết Tập đọc, giáo viên chủ động tăng thời lượng lên phù hợp. Để thực hiện được điều này, việc bố trí giáo viên dạy thay và giáo viên chủ nhiệm phải hợp lý, giáo viên cũng cần có sự trao đổi, gắn kết và cộng đồng trách nhiệm trong việc đảm bảo chất lượng học sinh.
	Trong mọi môn học, tiết học, giáo viên cần chú ý tăng hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh. Học sinh cần nhiều thời gian để luyện kỹ năng đọc, do đó, tôi chỉ đạo toàn trường, bất kể là giáo viên chủ nhiệm, giáo viên dạy thay hay giáo viên dạy môn chuyên đều phải chú ý đến việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Việc dành cho học sinh cơ hội đọc là điều không khó đối với giáo viên trong một tiết dạy nếu giáo viên chú ý. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc to thành tiếng trong hoạt động kiểm tra bài cũ, trong hoạt động đọc để khai thác chiếm lĩnh tri thức mới, đọc trong phần yêu cầu luyện tập, đọc trong các nội dung trò chơi, các nội dung củng cố,... Từ đó, các em được đọc to thành tiếng nhiều thay vì đọc thầm các yêu cầu và các nội dung. Đây cũng là một hoạt động góp phần to lớn trong việc rèn kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh. 
	2. Tổ chức các chuyên đề nâng cao kỹ năng dạy tập đọc cho học sinh.
	Muốn tiết học và các hoạt động dạy học đạt hiệu quả thì người dạy phải có các kỹ năng dạy học nhất định. Đây là một yếu tố quan trọng. Ngoài đòi hỏi giáo viên phải tận tâm, thương yêu học sinh và có thinh thần trách nhiệm thì người giáo viên cần có một phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Điều này quyết định chất lượng dạy học.
	Với học sinh bình thường và nhận thức của học sinh ttrong lớp tương đối đồng đều thì việc tổ chức dạy học sẽ dễ dàng hơn, ít mất thời gian hơn. Nhưng với lớp có nhiều đối tượng học sinh và lớp có nhiều học sinh dân tộc thiểu số không đáp ứng được yêu cầu về đọc thì mỗi người giáo viên cần phải có một số yêu cầu nhất định để đáp ứng yêu cầu dạy học.
	Vì thế, tôi đã chỉ đạo bộ phận chuyên môn và các khối trưởng lên kế hoạch chuyên đề, tập huấn về dạy học Tiếng Việt và quan trọng là dạy Tập đọc cho học sinh. Tùy từng khối lớp mà tổ chức các chuyên đề phù hợp.
	Khối lớp Một của trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng trong hai năm học 2015-2016 và 2016-2017 đang học chương trình Tiếng Việt Công Nghệ. Chương trình này có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít khó khăn đối với học sinh dân tộc thiểu số. Với học sinh có trình độ tiếp thu khá, cách học này dễ kích thích tư duy logich, các em nắm bắt nhanh và đọc, viết khá hoàn chỉnh tiếng Việt sau khi hoàn thành lớp Một. Với học sinh dân tộc thiểu số và các em tiếp thu chậm, các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận dạng, tư duy để đọc lên một tiếng. Vì thế khối lớp Một sẽ tổ chức những chuyên đề thiết thực về cách thức để hướng dẫn học sinh đọc. Các tiết chuyên đề cũng phải sáng tạo và phù hợp nội dung cần giải quyết. Một tiết dạy chuyên đề không nhất nhất phải dạy hết cả tiết, góp ý hết cả tiết mà sẽ bốc tách từng hoạt động, từng nội dung cần giải quyết.
	Ví dụ, ở học kỳ II khối lớp Một tổ chức chuyên đề: “Nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh lớp Một”. Nhà trường sẽ định hướng cho giáo viên và khối trưởng khối Một những nội dung cần chuẩn bị. Tất nhiên nội dung này chính là những yêu cầu cần thiết của giáo viên dạy khối Một. Nội dung chuyên đề phải có hai phần. Phần lý thuyết phải nêu được thực trạng và những nội dung cần đạt tới. Phần thực hành giáo viên dạy minh họa bằng một số hoạt động. Không nhất thiết phải dạy hết cả một tiết, một bài mà chỉ cần chọn lựa những nội dung cho thấy việc “ Nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng” cho học sinh. Đây là hoạt động cốt lõi mà giáo viên thực hiện chuyên đề cần chuyển tải. Giáo viên cần thể hiện được nội dung phải làm gì, đã làm gì để rèn, để nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng cho các em. Sau đó, toàn trường sẽ góp ý, rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong dạy học.
	Các tiết chuyên đề này rất thiết thực. Đây là một trong những hình thức nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên đồng thời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi hiện tại để mỗi giáo viên hoàn thành nhiệm vụ. Từ đó, nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh.
	Với khối lớp Bốn và Năm, cũng nội dung chuyên đề “ Nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng cho học sinh”. Hình thức và nội dung giải quyết sẽ khác. Nghĩa là chuyên đề phải giải quyết được vấn đề: Làm sao nâng cao kỹ năng đọc cho học sinh trong điều kiện thời gian hết sức hạn hẹp. Không có tiết Tiếng Việt tăng thêm, thời gian để các em học các môn khác là quá nhiều. Tiết Tập đọc được tổ chức trong 40 phút đòi hỏi các em phải giải quyết nhiều vấn đề hơn là chỉ đọc thành tiếng. Dĩ nhiên, khối lớp Bốn và Năm không phải tìm giải pháp để học sinh đánh vần được nhưng phải giải quyết vấn đề còn nhiều em đọc quá yếu, đọc quá chậm, đọc quá nhỏ, đọc sai từ, ngắt nghỉ sai nhịp, sai dấu câu,...Đọc chưa đạt yêu cầu của Chuẩn kiến thức- kỹ năng về tộc độ và các yêu cầu khác. 
	Như vậy, trước những yêu cầu thiết thực trên, khối lớp Bốn và Năm sẽ tổ chức chuyên đề thiên về lý thuyết, tất nhiên cũng phải có thực hành minh họa. Giáo viên sẽ đưa ra các cách thức giải quyết các vấn đề trên, sau đó thảo luận để thống nhất và thực hiện. Trong quá trình áp dụng thực hiện còn phải điều chỉnh bổ sung để tìm ra cách thức hay nhất.
Ví dụ, ở khối lớp Năm hiện nay còn có nhiều em đọc chưa đạt chuẩn, giáo viên chủ nhiệm không thể chỉ dành thời gian cho em luyện mỗi việc đọc thành tiếng bởi còn có rất nhiều nội dung cần giải quyết trong tiết học, còn rất nhiều học sinh khác cần được giúp đỡ. Vì vậy, chuyên đề đưa ra các giải pháp yêu cầu sự vào cuộc của mọi giáo viên. Bất cứ giáo viên nào dạy vào lớp đó cũng phải chú ý các em, cũng phải ưu tiên dành cho các em thời gian được đọc. Phải chú ý rèn cho các em kỹ năng phát âm đúng, đọc to, đọc rõ, đọc đúng tộc độ,... Các giải pháp trên được thảo luận, thống nhất trong chuyên đề và đã thực hiện hiệu quả.
	3. Đổi mới phương pháp và các hình thức dạy học
	Phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng dạy học. Giáo viên không có phương pháp dạy học phù hợp thì sẽ không đạt yêu cầu như mong muốn. Vì thế, giáo viên luôn phải đổi mới và lựa chọn phương pháp dạy học pù hợp.
	Đối với từng khối lớp thì hoạt động đọc thành tiếng có đặt trưng riêng. Với học sinh lớp Một, hoạt động đọc là hoạt động chủ đạo, đa số thời gian trên lớp được dành cho các em học để nhận dạng chữ, tiếng, từ, để các em tập đọc. Đến lớp Hai, Ba, các em phải tự đọc nhiều hơn vì thời gian còn cần nhiều cho các hoạt động khác. Lên đến lớp Bốn, Năm, hoạt động rèn kỹ năng đọc chỉ còn gói gọn trong thời gian ngắn ở phân môn Tập đọc, ngoài hoạt động đọc, các em còn phải tìm hiểu văn bản và các nội dung khác cần giải quyết. Vì thế, người giáo viên cần phải linh động, phải tùy thực tế và tùy vào học sinh để dành thời gian tổ chức hoạt động này phù hợp. Không nhất thiết vì một em đọc chưa đạt yêu cầu mà bắt cả lớp phải rèn đọc đi đọc lại một văn bản mà phải dạy theo đối tượng học sinh để đạt kết quả cao nhất.
Việc dạy phân hóa đối tượng học sinh là rất quan trọng. Đối với các em học sinh có khả năng tiếp thu chậm hơn bạn, giáo viên cần quan tâm đúng khả năng để các em được học vừa sức và hiệu quả.
Ví dụ, thay vì bắt một em học sinh lớp Hai ( em này có khả năng tiếp thu chậm, đọc chưa tốt) phải làm hết một bài toán giải, có trình bày lời giải, phép tính, đáp số hoàn chỉnh như các bạn thì cô có thể thay yêu cầu khác. Vì ai đã trải qua giảng dạy cũng biết điều này, với một học sinh lớp Hai mà tiếp thu chậm, đọc chưa tốt thì yêu cầu này là không khả thi. Vì vậy, giáo viên có thể thay yêu cầu cho em đó là phải tập đọc và cố hiểu đề. Giáo viên dành cho em thời gian tự đọc đề bài toán, sau đó giáo viên đến bên nghe em đọc, phải kiên nhẫn nghe em đọc xong đề. Giáo viên chỉ cần hỏi một vài câu theo yêu cầu ví dụ như: Bài toán yêu cầu tìm gì em? Thế em đã đọc đề rồi, đã biết Tổng số cây ăn trái là bao nhiêu không?,...Có thể yêu cầu với em chỉ dừng lại ở đó. Trong tiết học này, dù mục tiêu chính là học Toán nhưng giáo viên cũng đã quan tâm dành cho học sinh thời gian đọc, đã cho học sinh cơ hội được rèn cái mình cần. Và các yêu cầu sẽ dần dần được bổ sung để học sinh thấy việc học không nặng nề, không áp lực. Từ đó các em đến trường thường xuyên hơn. Chất lượng học tập ngày càng cải thiện hơn.
Giáo viên cần linh hoạt trong việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học. Linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức cho từng hoạt động cụ thể. Quan trọng là giáo viên phải phân hóa được đối tượng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp và hiệu quả.
Ở đây đang nói đến việc đổi mới phù hợp hướng giải quyết cho học sinh được tiếp cận nhiều với văn bản, cho học sinh được rèn đọc thành tiếng nhiều và là tiết dạy chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ đọc. 
Và việc đổi mới đó đòi hỏi với tất cả giáo viên dạy ở tất cả các môn chứ không riêng môn Tiếng Việt.	
4. Lồng ghép dạy kỹ năng đọc trong tất cả các môn học và hoạt động giáo dục
	Đây là giải pháp đồng bộ trong trường. Đứng trước thực tế khả năng đọc thành tiếng của học sinh dân tộc và một số ít học sinh người Kinh trong trường, tôi mạnh dạn chỉ đạo tất cả giáo viên tiểu học và các giáo viên bộ môn thực hiện tăng cường dạy đọc cho học sinh.
	Trong tất cả các môn học, hoạt động đọc thành tiếng cho học sinh phải là hoạt động ưu tiên. Giáo viên cần coi trọng việc cho học sinh đọc tốt nội dung trước khi khai thác tìm hiểu bài. Các em sẽ được đọc cá nhân, đọc nhóm, đọc đồng thanh,... các kênh chữ, các đoạn văn bản chứa nội dung cần khai thác trước.
	Ví dụ: Với giáo viên dạy Âm nhạc, khi dạy bài hát Bàn tay mẹ (lớp Hai), giáo viên sẽ ưu tiên hoạt động đọc lời bài hát nhiều hơn bình thường. Thay vì chỉ đọc 2 lần lời bài hát , cô sẽ cho học sinh dân tộc đọc 4-5 lần. Thay vì mỗi lượt là một em đọc bài hát, giáo viên cho học sinh dân tộc thiểu số đọc 1 hoặc 2 câu nối tiếp. Như vậy, sẽ nhiều em được đọc. Các em được đọc thành tiếng nhiều lần, cô phải chú ý theo dõi sửa sai cụ thể nhờ thế kỹ năng đọc được nâng cao hơn, các hoạt động khác có thể ít thời gian hơn.
	Với giáo viên dạy các môn Tin học, Thể dục hay Mỹ thuật, Thủ công cũng tương tự. Tùy vào thực tế bài dạy mà sử dụng thời gian để ưu tiên cho học sinh được đọc cá nhân nhiều hơn. Ví dụ đọc kênh chữ trong phần hướng dẫn thực hành trước khi thực hành trên máy ở môn Tin học, đọc phần giới thiệu, nhận xét ở môn Mỹ thuật hay thậm chí có thể đưa một văn bản ngắn như một hiệu lệnh, một trò chơi để học sinh đọc trước khi thực hiện trong môn Thể dục.
Trong các hoạt động giáo dục khác, giáo viên cũng càn chú ý kỹ năng đọcthành tiếng cho học sinh. Phần thiết kế chương trình bao giờ cũng lưu ý có nội dung cho học sinh đọc. Tạo điều kiện cho các em được giao lưu để phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua hoạt động đọc.
Năm học 2016-2017, trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng là một trong bảy trường tiểu học của huyện Krông Ana được tổ chức Room to Read chọn tổ chức thư viện thân thiện. Thư viện th

Tài liệu đính kèm:

  • docth_17_0053_2021890.doc